Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

QUAN ĐIỂM, QUAN NIỆM VỀ NHÂN DÂN, THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG LỊCH SỬ

Thế trận lòng dân là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975), nhất là sau Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991), dùng để chỉ yếu tố lòng dân được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp quy tụ, phát huy tạo thành "thế trận" thực hiện mục tiêu chính trị, nhiệm vụ cách mạng, xây dựng, bảo vệ đất nước. Trong lịch sử dân tộc trước đây cũng như lịch sử nhân loại chưa sử dụng thuật ngữ thế trận lòng dân, tuy nhiên, những vấn đề về vai trò của quần chúng nhân dân, yếu tố lòng dân, nghệ thuật sử dụng lực lượng quần chúng,... đã được các chính trị gia, các quốc gia, dân tộc trên thế giới, các triều đại phong kiến Việt Nam hết sức chú trọng. Nhiều nội dung của thế trận lòng dân đã thành những luận điểm, quan điểm chính trị, quân sự ở nhiều quốc gia trên thế giới ngay từ thời cổ đại, trải qua các quá trình lịch sử, phát triển đỉnh cao trong cách mạng XHCN.
Trong lịch sử nhân loại, các quan điểm chính trị, quân sự, triết học trước Mác đều chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của quần chúng nhân dân, thường hoặc phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, một số triết gia, chính trị học đã nhận thức được quần chúng có vai trò hết sức to lớn trong xã hội, xây dựng những học thuyết chính trị về sử dụng lực lượng quần chúng, về yếu tố lòng dân trong giành, giữ, thực thi chính quyền được nhiều vương triều phong kiến sử dụng trị vì xã hội. Tiêu biểu là: Periklès, Khổng Tử và Mạnh Tử.
Periklès là nhà triết gia, lãnh tụ dân chủ uy tín nhất của Athens (Hy Lạp cổ đại thời kỳ 461-429 trước công nguyên) đã khẳng định, thành quốc không phải do một thiểu số mà do đa số (nhân dân) cai trị... hễ ai có khả năng phục vụ nhà nước thì điều kiện tăm tối của đương sự không hề là một trở ngại.
Khổng Tử, nhà triết học lớn của Trung Hoa thời cổ đại đã coi điều kiện quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải được lòng dân. Muốn được lòng dân, nhà cầm quyền phải biết dưỡng dân, tức là chăm lo cải thiện đời sống cho dân và phải biết giáo dân, phải chịu khó lo liệu giúp đỡ cho dân, đặc biệt là phải biết làm cho dân giàu.
Mạnh Tử, một đại biểu xuất sắc của Nho giáo Trung Hoa thời cổ đại đã bàn luận rất nhiều về dân. Ông cho rằng mọi chế độ đều phải nhằm vào lợi ích của dân. Lợi ích của dân cũng là lý do tồn tại của thiên tử, chư hầu, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, có nghĩa là dân là quý hơn hết, xã tắc là thứ yếu, vua là thường vì có thể thay đổi vua, được dân là được tất cả, mất dân là mất tất cả.
Tuy nhiên, do hạn chế về thế giới quan duy tâm hoặc duy vật siêu hình nên các quan điểm trên đây chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò của sức mạnh quần chúng nhân, yếu tố lòng dân trong kiến tạo, xây dựng xã hội.
Theo suốt chiều dài lịch sử, ông cha ta đã có quan điểm về vai trò đặc biệt quan trọng của quần chúng nhân dân, của yếu tố lòng dân, sức mạnh của nhân dân trong quá trình dựng nước, giữ nước.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Lý - Trần đã nói nhiều về "ý dân", "lòng dân", coi việc "khoan thư sức dân" là điều hệ trọng bậc nhất trong các hoạt động chính trị. Trong "Chiếu dời đô", Lý Công Uẩn đã nói: "Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân..." . Trong bài "Văn lộ bố" khi tiến hành cuộc chiến tấn công quân Tống ở biên giới phía Bắc, Lý Thường Kiệt đã nói: "Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Trần Quốc Tuấn, người có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, đã nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong công cuộc giữ nước, nêu lên tư tưởng "chúng chí thành thành", ý chí của dân là bức thành kiên cố nhất của nước. Sau này, trước khi qua đời, Trần Quốc Tuấn đã tổng kết lịch sử và khẳng định: "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là sức mạnh quyết định thắng lợi của sự nghiệp giữ nước.
Thấy rõ nguyên nhân thất bại, khi chiến tranh xảy ra, nhân dân không ủng hộ, dẫn đến mất nước, Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly đã nói: “Giặc mạnh thần không sợ, chỉ sợ lòng dân không theo” . Nguyễn Trãi đã khẳng định sức mạnh vô cùng to lớn của lòng dân. Ông chỉ rõ "chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" và khẳng định một nguyên lý rất cơ bản trong giữ nước của dân tộc Việt Nam là lấy đại nghĩa, chí nhân thắng hung tàn, cường bạo. Tổng kết kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi cho rằng, nguyên nhân quan trọng giành thắng lợi là do: ''dân chúng bốn phương tụ hợp...". Phan Bội Châu - một nhà yêu nước lớn của dân tộc vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khẳng định, người cả nước không đồng tâm thì dù có anh hùng cũng không thể cứu được nước. 
Mác - Lênin khẳng định nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội; là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát rằng trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người phân tích: Ba điều kiện này đều quan trọng, nhưng quan trọng nhất là nhân hòa, nghĩa là mọi người dân đều nhất trí, đồng lòng. Người đã từng khẳng định: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Chính vì thế “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền gốc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là sự đoàn kết toàn dân, muôn người như một, Người nhấn mạnh: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm "lấy dân làm gốc", sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, xây dựng nền QPTD, chiến tranh nhân dân. Do đó, đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại, ghi vào lịch sử nước nhà như những mốc son chói lọi nhất.
Những năm gần đây, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tướng lĩnh Quân đội ta và nhiều nhà khoa học trong các công trình, bài viết của mình, đã đề cập đến thuật ngữ thế trận lòng dân với tư cách là một nội dung cơ bản của nền QPTD; của sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN. Trong đó, nhấn mạnh xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc, được Đảng ta kế thừa xuất sắc trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng sức mạnh quốc phòng BVTQ trong điều kiện mới.

       Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta chỉ rõ quan điểm cơ bản trong nhiệm vụ BVTQ hiện nay là xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ tăng cường QP-AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó nhấn mạnh: "Tăng cường sức mạnh QP-AN cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược BVTQ" . Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược BVTQ, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng chỉ rõ: "Tăng cường tiềm lực QP-AN của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân..."

Trong xây dựng thế trận lòng dân, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định xây dựng, củng cố, phát huy lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam; xây dựng lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; xây dựng sự đồng thuận xã hội; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về nhiệm vụ BVTQ, ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Như vậy, quan niệm thế trận lòng dân đã dần hình thành, nội dung thế trận lòng dân ngày càng sáng tỏ, được sử dụng ngày càng phổ biến trong các văn bản của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp và trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
Bài viết bởi tác giả: Tăng âm truyền thanhthiết bị truyền thanh

5 nhận xét:

  1. Trong xây dựng thế trận lòng dân, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định xây dựng, củng cố, phát huy lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam; xây dựng lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; xây dựng sự đồng thuận xã hội; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về nhiệm vụ BVTQ, ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch... Đó là vấn đề chân lý

    Trả lờiXóa
  2. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

    Tư tưởng ẩy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong các cuộc cuộc kháng chiến chống kẻ thù. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muôn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
    Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
    Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.


    Trả lờiXóa
  3. Để xây dung thế trận long dân, cần phải xây dung niềm tin của nhân dân vào Đảng và Chính quyền. Muốn như vậy pháp luật phải được thượng tôn, không có vùng cấm. Sau đây là một số câu chuyện đáng để chúng ta cùng suy ngẫm.
    1. Tào Tháo khi dẫn quân đánh nhau với Viên Thiệu, ông đưa ra một điều luật là quân tướng không được hủy hoại lúa của dân nếu ai phạm phải sẽ bị chém đầu, rồi có một hôm ngựa của Tào Tháo vô tình dẫm nát một khoảnh lúa của dân, lúc đó các mưu sỹ của Tào Tháo khuyên ông nên cắt búi tóc của mình để răn đe, Do việc quân pháp nghiêm minh nên quân ít vẫn đánh thắng quân Viên Thiệu 100 vạn.
    2. Trong thời đại Hồ Chí Minh, đại tá quân nhu Trần Dụ Châu do tham ô quân nhu cũng đã lãnh án tử hình. Để bác đơn xin ân xá, Bác Hồ của chúng ta cũng đã mất một đêm thức trắng. Trong vở kịch một đêm thức trắng Bác đã có lời dặn "Bác không cần chú phải trả những gì chú ăn cắp được, bác chỉ cần chủ trả lại niềm tin của nhân dân, của cải mất thì còn lấy lại được, chứ niềm tin đã mất thì lấy lại làm sao đây ? "

    Trả lờiXóa
  4. TRong xây dựng thế trận lòng dân, thì điều rất quan trọng đó là phải xây dựng lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ XHCN

    Trả lờiXóa
  5. **Thế trận lòng dân** là một khái niệm rất quen thuộc trong lịch sử Việt Nam, thể hiện sự kết hợp mạnh mẽ giữa chính quyền và nhân dân trong công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu:

    1. **Kháng chiến chống quân Nguyên-Mông (thế kỷ 13)**:
    - Trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên-Mông, lòng dân Việt Nam đã trở thành một yếu tố quyết định thắng lợi. Vua Trần Nhân Tông đã triệu tập Hội nghị Diên Hồng để lấy ý kiến của các bô lão và nhân dân về việc giữ nước hay hòa. Tinh thần đồng lòng quyết chiến của nhân dân đã góp phần tạo nên chiến thắng vang dội.

    2. **Kháng chiến chống quân Minh (thế kỷ 15)**:
    - Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã dựa vào lòng dân, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân từ khắp nơi. Nhờ lòng dân nhiệt thành, Lê Lợi đã đánh bại quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước.

    3. **Kháng chiến chống quân Pháp (thế kỷ 19-20)**:
    - Trong suốt quá trình kháng chiến chống quân Pháp, nhân dân Việt Nam đã tham gia tích cực vào các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, Đông Du, và Việt Minh. Lòng dân đã tạo nên sức mạnh lớn lao, giúp cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi.

    4. **Kháng chiến chống Mỹ (thế kỷ 20)**:
    - Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân Việt Nam đã thể hiện qua sự đoàn kết, kiên cường và lòng yêu nước sâu sắc. Nhân dân đã hỗ trợ tối đa cho bộ đội, đóng góp cả về vật chất lẫn tinh thần để kháng chiến thành công.

    Trong lịch sử Việt Nam, thế trận lòng dân luôn là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các cuộc kháng chiến và bảo vệ đất nước. Chính sự đoàn kết, lòng yêu nước và tinh thần kiên cường của nhân dân đã giúp Việt Nam vượt qua nhiều thử thách và giành lại độc lập, tự do.

    Trả lờiXóa