Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM


Lịch sử hàng nghìn năm dựng, giữ nước của dân tộc ta cho thấy, để xây dựng và BVTQ, hầu hết triều đại đều quan tâm yếu tố lòng dân, xây dựng thế trận lòng dân; coi yếu tố lòng dân là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng, cơ sở nền tảng để thúc đẩy, phát huy các thành tố khác, có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất to lớn trong xây dựng và BVTQ. Tuy nhiên, cũng có triều đại không quan tâm đúng mức việc xây dựng thế trận lòng dân nên đã gặp thất bại, đất nước lâm nguy.
Thời kỳ bắt đầu dựng nước, giữ nước, Nước Văn Lang của các Vua Hùng ngay từ đầu đã phải đối phó với các âm mưu, ý đồ và tham vọng xâm lấn, bành trướng của các thế lực bá quyền phương Bắc. Các Vua Hùng đã tập hợp muôn họ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc. "Trước nạn ngoại xâm, sức dân đã lớn lên như thần Phù Đổng,... đánh thắng kẻ thù". Trong cộng đồng người Việt đã sớm hình thành ý thức dân tộc, ý thức giữ nước, ý thức tự lập, tự cường, được nhà nước khơi dậy, quy tụ vào công cuộc xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành, phát triển thế trận lòng dân ở thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X, nước ta rơi vào ách thống trị, đô hộ tàn khốc của các vương triều phong kiến phương Bắc, song nhân dân ta vẫn nung nấu tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. "Tinh thần và ý chí này được những người tiến bộ, tiêu biểu trong nhân dân khơi dậy, quy tụ, phát huy trong các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ, giành lại quyền độc lập dân tộc". Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa do hai Bà Trưng lãnh đạo chống lại sự thống trị của Nhà Hán (40-43); tiếp theo, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống chính quyền đô hộ Nhà Hán đã nổ ra trong suốt hai thế kỷ đầu Công nguyên. Sang thế kỷ thứ III, ngay trong thời kỳ bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã củng cố được ách thống trị và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa, vẫn bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Bà Triệu lãnh đạo chống lại sự đô hộ của Nhà Ngô (248). Cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (722); khởi nghĩa của Phùng Hưng, Phùng Hải vào năm 766; biến binh của Dương Thanh năm 819; khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ đầu thế kỷ X; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ năm 931. Đặc biệt, "năm 938, Ngô Quyền, vị tướng giỏi và là con rể của Dương Đình Nghệ, được quân của các tướng, hào kiệt địa phương cùng đông đảo nhân dân trong vùng cung cấp tình hình sông nước, địa hình, địa vật,... đánh thắng quân Nam Hán xâm lược trên sông Bạch Đằng, giành lại quyền làm chủ đất nước, mở ra thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, kết thúc hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc".
Trong thời kỳ văn minh Đại Việt, mặc dù có những lúc thăng trầm, nhưng nhìn chung các vương triều phong kiến đã ý thức khá đầy đủ vị trí, vai trò và phát huy được lòng dân trong giữ nước, thế trận lòng dân trong thời kỳ này thể hiện tập trung trước hết ở tinh thần đoàn kết, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân trong xây dựng nhà nước phong kiến thống nhất, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đặc biệt là các cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn (981); kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ hai (1075-1077) của Nhà Lý; 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của Nhà Trần ở thế kỷ XIII; kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV; Phong trào Tây Sơn chống quân Thanh ở thế kỷ XVIII; các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược khắp từ Bắc chí Nam ở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Tinh thần yêu nước, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân đã được huy động cho các cuộc kháng chiến thắng lợi, lập thành thế trận lòng dân vững chắc, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn cho các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Những lúc nào mà thế trận lòng dân được xây dựng, phát huy tốt thì lúc đó các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi và xây dựng đất nước phát triển, tiêu biểu như các giai đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thời kỳ hoàng thịnh của Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn. Trong các thời kỳ này, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân được các triều đại coi trọng, phát huy, quy tụ, "từ đó, tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để ngăn ngừa, đẩy lùi nhiều cuộc chiến tranh, đánh thắng nhiều kẻ thù lớn, như: Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh,... bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ của đất nước". Ngược lại, lúc nào việc xây dựng thế trận lòng dân không tốt thì lúc đó đất nước lâm nguy, tiêu biểu như Nhà Hồ (đầu thế kỷ XV) cai trị đất nước bằng chính sách quốc trị không hợp lòng dân, xây dựng phát triển nền nghệ thuật quân sự không dựa vào sức mạnh của toàn dân, không xây dựng được ý chí chiến đấu trong binh sỹ,.. do đó đã để đất nước rơi vào tay giặc Minh. "Triều đại chúa Trịnh ở phía Bắc, chúa Nguyễn ở phía Nam (thế kỷ XV-XVIII) luôn tranh giành quyền lực giữa các họ trong triều bằng nội chiến, khiến dân chúng lầm than oán giận, không tạo được sức mạnh của thế trận lòng dân để phát triển đất nước. Triều đình Nhà Nguyễn thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX, đã cai trị đất nước không dựa vào dân, đối lập quyền lợi của dòng họ với quyền lợi tối cao của dân tộc,... kìm hãm phong trào chống Pháp của nhân dân,... không tin vào sức mạnh của dân tộc, khiếp nhược trước sức mạnh của kẻ thù", do đó đất nước đã nhanh chóng bị thực dân Pháp xâm lược.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước lên vũ đài chính trị, chính thức tuyên bố sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, chống đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng thì tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ và có bước chuyển biến nhảy vọt theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Các tầng lớp nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, tự giác chấp hành đường lối của Đảng trong mọi việc làm, kể cả lúc thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn của cách mạng.
Ở cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khẩu hiệu giành độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới, nhân dân cả nước đồng lòng, nhất loạt đứng lên dưới ngọn cờ của Đảng tranh đấu giành độc lập, tạo ra thế trận lòng dân vững chắc để thực hiện tổng khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Sức mạnh của toàn dân được phát huy cao độ, do vậy, chỉ trong thời gian ngắn, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông từ trung ương cho đến các địa phương ... "Nhờ vậy, cuộc kháng chiến của ta liên tục phát triển từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từng bước tạo nên thế áp đảo quân địch, kết thúc chiến tranh bằng thắng lợi rực rỡ của Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" trên phạm vi cả nước.
Mặc dù, sau kháng chiến chống Pháp, có những sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nhanh chóng sửa sai nên đã tiếp tục quy tụ được lòng dân, cả nước một lòng, toàn dân đoàn kết xung quanh Đảng để tiến hành kháng chiến chống Mỹ và kiến quốc.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước anh dũng của nhân dân ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến vai trò và giá trị to lớn của thế trận lòng dân đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng. Thế trận lòng dân trong giai đoạn này thể hiện trước hết ở sự đồng thuận của toàn dân với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, biên giới nước ta ở phía Tây Nam và phía Bắc bị các thế lực thù địch phát động chiến tranh xâm lấn. Để bảo vệ biên cương Tổ quốc, Đảng ta đã kêu gọi toàn dân, toàn quân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. "Thắng lợi của quân, dân ta ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, một lần nữa chứng minh thế trận lòng dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, tiếp nối xứng đáng thế trận lòng dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược trước đây".
Trước năm 1986, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nước ta lâm vào khủng hoảng KT-XH trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và tiền đồ của chủ nghĩa xã hội giảm sút, thậm chí còn xuất hiện sự hoài nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, Đảng ta đã kiên trì thực hiện các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội; nghiêm khắc sửa chữa những khuyết điểm, từng bước tiến hành đổi mới đất nước. Đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thổi luồng gió mới vào phong trào cách mạng Việt Nam, làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn, kích thích sản xuất phát triển, làm cho tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống nhân dân ngày một cải thiện rõ rệt. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp dân cư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố thế trận lòng dân trong xây dựng và BVTQ.
Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và BVTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng chiến tranh toàn dân, thực hiện toàn dân giữ nước đã được phát huy đến đỉnh cao. Đảng ta đã nhất quán quan điểm sự nghiệp giữ nước là của toàn dân, trong đó LLVT nhân dân là nòng cốt. Trong chiến tranh giữ nước có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tạo nên thế trận thiên la địa võng đánh địch ở khắp nơi, cả rừng núi, đồng bằng và đô thị, với mọi thứ vũ khí từ hiện đại đến thô sơ, từ tên lửa đến tên tre, lưỡi lê, lưỡi mác... .
Phát huy thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, các kỳ đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X, XI của Đảng tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng kế hoạch phát triển KT-XH nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa dân tộc ta vững bước tiến vào thế kỷ XXI dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quán triệt và chỉ đạo toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị đất nước, tăng cường quốc phòng - an ninh (QP-AN) để tạo ra môi trưởng hòa bình ổn định phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại gắn liền với tăng cường sức mạnh quốc phòng BVTQ. Trên cơ sở tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, toàn dân đã đoàn kết xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thế trận lòng dân trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam trở thành thế trận toàn dân giữ nước bao hàm các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao. Công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam không chỉ thuần túy dựa vào LLVT, quân đội (mặc dù LLVT, quân đội luôn được coi là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giữ nước), mà còn dựa vào lực lượng nhân dân cả nước, dựa vào sự đồng tâm nhất trí của cả dân tộc, dựa vào thế và lực toàn diện, cả vật chất, tinh thần của đất nước. Với thế trận toàn dân giữ nước đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù, dù chúng có quân đông, vũ khí trang bị hiện đại đến đâu. "Trong điều kiện một nước mà lực lượng quân sự không nhiều, tiềm lực vật chất so với kẻ thù không lớn, thường phải "lấy yếu chống mạnh", “lấy ít địch nhiều”, thì không còn cách nào khác phải phát huy cao nhất sức mạnh chính trị - tinh thần, dựa chắc vào đó mà xây dựng thế trận toàn dân giữ nước, có như vậy mới tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn hẳn kẻ thù để giữ nước thành công".
Copy right: Tăng âm truyền thanhthiết bị truyền thanh

6 nhận xét:

  1. Thế trận lòng dân là khái niệm mới của Việt Nam. Trên thế giới chưa có khái niệm này

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đúng là chỉ có Việt Nam mới có khái niệm này, được thừa kế qua nhiều đời cha ông chống giặc ngoại xâm

      Xóa
  2. Bài viết này rất hay, sâu sắc, phân tích cụ thể

    Trả lờiXóa
  3. Borgata Hotel Casino & Spa | Dr.MCD
    Borgata Hotel Casino & Spa is the destination to indulge your senses. 전주 출장안마 The Borgata boasts 2,000-square-feet of 용인 출장샵 meeting and 공주 출장안마 event 서귀포 출장안마 space with more than 충청북도 출장샵 2000 slot and video

    Trả lờiXóa
  4. **Thế trận lòng dân** là một khái niệm quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thể hiện sự đoàn kết, chung sức, đồng lòng của nhân dân và chính quyền trong công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Dưới đây là một số giai đoạn lịch sử tiêu biểu:

    1. **Kháng chiến chống quân Nguyên-Mông (thế kỷ 13)**:
    - Khi quân Nguyên-Mông xâm lược, nhà Trần đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng để lấy ý kiến của các bô lão trong cả nước về việc đánh hay hòa. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn dân đã giúp quân dân nhà Trần giành chiến thắng vang dội trong ba lần kháng chiến.

    2. **Kháng chiến chống quân Minh (thế kỷ 15)**:
    - Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân. Nhờ vào sự giúp đỡ của người dân, nghĩa quân Lam Sơn đã vượt qua nhiều khó khăn và cuối cùng đánh bại quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước.

    3. **Kháng chiến chống quân Thanh (thế kỷ 18)**:
    - Vua Quang Trung đã lãnh đạo nhân dân, kết hợp với chiến thuật quân sự khôn khéo, đánh bại quân Thanh trong trận chiến Ngọc Hồi - Đống Đa, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ.

    4. **Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (thế kỷ 20)**:
    - Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thế trận lòng dân thể hiện rõ qua sự hỗ trợ vô điều kiện của nhân dân đối với các chiến sĩ cách mạng. Những phong trào toàn dân như phong trào Cần Vương, Đông Du, Việt Minh đã huy động sức mạnh của nhân dân toàn quốc, đóng góp vào chiến thắng của cách mạng.

    5. **Thời kỳ hiện đại**:
    - Thế trận lòng dân còn thể hiện qua sự chung sức, đồng lòng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nông thôn mới, và bảo vệ chủ quyền biển đảo đều nhận được sự tham gia nhiệt tình của nhân dân.

    Thế trận lòng dân đã và đang là một yếu tố quyết định sự thành công của Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử, từ kháng chiến chống ngoại xâm cho đến xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân và chính quyền là nguồn sức mạnh vô cùng quý báu.

    Trả lờiXóa