Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Bàn về Thế trận lòng dân trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975  

                                                                                 Post by: âm thanh hội trường                                 

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại đó đã mở ra kỷ nguyên mới chấm dứt hoàn toàn ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên đất nước ta, đưa Tổ quốc bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 Toàn dân nô nức tham gia kháng chiến giải phóng miền Nam

Dấu ấn kỳ tích Đại thắng mùa Xuân 1975 của dân tộc ta đến nay đã trải qua 40 năm, các thế hệ người Việt Nam càng cảm nhận đầy đủ và sâu sắc giá trị của thắng lợi mang tầm vóc thời đại này. Đó là sự hội tụ trí tuệ, bản lĩnh kiên cường, bất khuất và khát vọng tự do, độc lập, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam; là thành quả lãnh đạo việc xây dựng và phát huy sức mạnh “thế trận lòng dân” của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói riêng.   
Trong quá trình lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như khi xây dựng kế hoạch tác chiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đặc biệt coi trọng đến nhân tố “trận địa lòng dân” (sau này được định danh thành thuật ngữ “thế trận lòng dân”), để động viên và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc. Thực chất “thế trận lòng dân” là trạng thái chính trị - tinh thần của toàn dân với những nhân tố cốt lõi bao gồm: Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí quyết tâm chiến đấu của toàn dân, được các tổ chức, lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của quốc gia, dân tộc khơi dậy, xây dựng, quy tụ, định hướng, phát huy cao độ, tạo nên nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc để huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc.
Chủ thể xây dựng thế trận lòng dân (khơi dậy, quy tụ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 nói riêng là Đảng và Nhà nước ta. Mục đích xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” nhằm tạo cơ sở, nền tảng chính trị - tinh thần để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Khẳng định những vấn đề cốt lõi trên sẽ góp phần quan trọng đấu tranh, phê phán, bác bỏ mọi quan điểm, luận điệu tuyên truyền sai trái, thù địch hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để làm nên mốc son chói lọi Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trước khi Đảng ta quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đang tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1975). Tuy quân đội Mỹ không có mặt trực tiếp trên chiến trường miền Nam, song sức mạnh kinh tế, quân sự, với cỗ máy chiến tranh khổng lồ Mỹ trang bị cho chính quyền Ngụy Sài Gòn vẫn hiện hữu, nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, bảo vệ chính quyền tay sai bù nhìn. Để có được Đại thắng mùa Xuân năm 1975, nhân dân miền Nam đã phải trải qua những năm tháng chịu sự đàn áp dã man, tàn bạo của chế độ Mỹ - Ngụy. Trước những tình thế khó khăn, hiểm nghèo, đồng bào miền Nam vẫn một lòng, một dạ đi theo cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta, được sự chi viện sức người, sức của của hậu phương lớn miền Bắc, quân và dân miền Nam luôn anh dũng, kiên cường đấu tranh chống chế độ Mỹ - Ngụy. “Lòng dân” vẫn luôn hướng theo Đảng; Đảng luôn ở trong dân. Đảng ta đã biết khơi dậy, quy tụ và phát huy sức mạnh “thế trận lòng dân” trong việc chớp thời cơ “ngàn năm có một” để giành thắng lợi từng bước, tạo thế chủ động trên chiến trường miền Nam, chủ động tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đánh đổ hoàn toàn bè lũ tay sai, giành thắng lợi huy hoàng cho dân tộc. 
Thực tiễn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh, khi “ý Đảng” hợp với “lòng dân” đã hội tụ sức mạnh, làm cho “thế trận lòng dân” càng được phát huy cao độ, tạo nên cao trào cách mạng quyết tâm giành toàn thắng trong trận quyết chiến chiến lược - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Biểu hiện “thế trận lòng dân” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 cả về mặt không gian, thời gian và lực lượng.
Về không gian. Biểu hiện “thế trận lòng dân” ở việc nhân dân cả nước từ Nam chí Bắc đồng lòng quyết tâm chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối. “Thế trận lòng dân” đã vững, đang được khơi dậy và phát huy cao độ chính là ngọn nguồn, là chỗ dựa “vững hơn thành’ để Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương và hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Thực tiễn những ngày tháng cuối năm 1974, đầu năm 1975, tuy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trực tiếp trên các chiến trường ở miền Nam, “thế trận lòng dân” của đồng bào miền Nam đã sẵn sàng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; nhưng không gian chiến trường thực sự diễn ra trong cả nước. “Thế trận lòng dân” của cả hậu phương miền Bắc hướng về miền Nam; rộng lớn hơn là nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới cũng hướng về Việt Nam, hướng về cuộc chiến đấu cuối cùng của nhân dân miền Nam Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược đánh gục dã tâm của kẻ xâm lược cùng bè lũ tay sai bán nước.

 Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập - Biểu tượng của Chiến thắng 30-4
Về thời gian và lực lượng. Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, “thế trận lòng dân” được phát huy cao độ; quân và dân cả nước hừng hực khí thế ra trận với khí phách anh hùng “Một ngày bằng hai mươi năm”, quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hướng ra tiền tuyến lớn, miền Bắc dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của mình cho miền Nam tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Mốc lịch sử quan trọng đó là rạng sáng ngày 10-3-1975, bộ đội ta đánh đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên, đồng thời cũng là trận then chốt mở đầu của cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975. Trước tình hình thắng lớn của ta ở Tây Nguyên, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Phát huy những thắng lợi dồn dập ở Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung, quân và dân ta ta trên các chiến trường miền Nam đã kết hợp “tiến công và nổi dậy”, “nội dậy và tiến công”.  Ngày 28-3, ta giải phóng Huế; ngày 29- 3, ta giải phóng Đà Nẵng. Ngày 1-4-1975, trên cơ sở sự phát triển thế tiến công như vũ bão trên chiến trường và “lòng dân” ở đô thị lớn nhất miền Nam là Sài Gòn - Gia Định đã sẵn sàng nổi dậy, Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975 trước mùa mưa, không thể để chậm.
Đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, chiến dịch mang tên Bác giải phóng Sài Gòn - Gia Định được bắt đầu bằng 5 quân đoàn chủ lực tinh nhuệ làm nòng cốt với tinh thần “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”; cùng với sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân ở nội, ngoại thành Sài Gòn - Gia Định, ta đã nhanh chóng đè bẹp bộ máy ngụy quân, ngụy quyền của địch từ trung ương đến cơ sở. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, thành phố Sài Gòn hầu như còn nguyên vẹn, làm nức lòng nhân dân cả nước, làm cả hành tinh chấn động. Cả miền Nam trong những ngày cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 1975 ngập tràn sắc đỏ cờ hoa mừng ngày hội lớn - ngày hội Đại thắng của toàn dân tộc Việt Nam.
Nói về cuộc chiến tranh Việt Nam, các nhà biên soạn “Từ điển Lịch sử của những năm 1970” của Mỹ đã viết: Đối với đa số người Việt Nam, sau hàng nghìn năm chiến đấu chống các lực lượng ngoại xâm, người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước Việt Nam. "Họ (nước Mỹ-TG) đã góp nên sức mạnh" cho phong trào yêu nước mãnh liệt do Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, với uy tín trong nhân dân… và đã đạt được sự ủng hộ rộng rãi của đa số nhân dân. Cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao: Ý chí độc lập và thống nhất đất nước đã trở thành yếu tố quyết định giúp những người cộng sản thắng lợi chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự của họ để làm nên chiến thắng”[1]. Cần phải bổ sung vào đánh giá trên, đó là sức mạnh “thế trận lòng dân” đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và được phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đã góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975.
Trong tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới. Tư duy về quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta, theo đó, cũng có bước phát triển. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản tài nguyên, thiên nhiên của đất nước, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng và cuộc sống hoà bình, hạnh phúc của nhân dân… Vì vậy, để tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới phải quán triệt sâu sắc nhiều nội dung, yêu cầu mới, trong đó xây dựng “thế trận lòng dân” là yếu tố cốt lõi, đặc trưng bản chất và là “nguyên vật liệu” trong xây dựng nền quốc phòng - an ninh toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tác giả: Tăng âm truyền thanhthiết bị truyền thanh

Tác giả: Tăng âm truyền thanh AAV Việt Nam là người nghiên cứu sáng tạo ra sản phẩm tăng âm truyền thanh và các thiết bị truyền thanh hãng AAV Việt Nam nhiều tính năng tiên tiến, hiện đại, chất lượng cao, hơn hẳn các dòng tăng âm truyền thanh, thiết bị truyền thanh trên thị trường Việt Nam hiện nay - kể cả các hãng thiết bị truyền thanh lớn đang có mặt trên thị trường Việt Nam




[1] Từ điển Lịch sử của những năm 1970, Nhà xuất bản Greenwood Press phát hành năm 1999 tại Mỹ.

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như sức nước

Bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi được viết sau khi dân tộc ta chiến thắng giặc Minh xâm lược, có tựa đề Quan Hải (đóng cửa biển). Âm thanh của bài thơ còn vang vọng mãi về sau.

Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn

QUAN HẢI
Phiên âm:

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
Trầm giang thiết toả diệt đồ nhiên
Phúc do thuỷ tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
Càn khôn kim cổ vô cùng ý
Khước tại thương lang viễn thụ yên

Dịch nghĩa:

ĐÓNG CỬA BIỂN

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân như nước,
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Hoạ phúc có manh mối không phải một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời.





NGUYỄN TRÃI


Bản dịch thơ của Vũ Bình Lục:

Cọc gỗ vững ken dày trước sóng,
Xích sắt ngầm giăng khắp sông sâu
Lật thuyền mới biết bởi đâu
Dân như nước, đất hiểm sâu giúp gì!

Họa phúc có mầm, đâu một buổi
Hận anh hùng, để mấy ngàn năm
Lẽ trời kim cổ xa xăm
Vẫn xanh sắc nước, tím bầm khói mây.

Bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. Hai câu mở đầu, khơi nguồn từ một hiện thực như vẫn còn đang hiển hiện trước mắt:

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi!

Cọc gỗ và xích sắt, đấy là những thứ mà nhà Hồ cho làm để chống quân Minh xâm nhập vào cửa biển nước ta. Công bằng mà nói, đó là những việc làm cần thiết đối với việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lúc bấy giờ. Có việc hơi giống tiền nhân Ngô Quyền chống quân Nam Hán, đời tiền Lê (Lê Hoàn) chống quân Tống, và đời Trần (Trần Hưng Đạo) chống Nguyên Mông, đóng cọc ở sông Bạch Đằng, cũng là để chống giặc phương Bắc. Nhưng tiền nhân thì thành công, còn cha con Hồ Quý Ly thì thất bại, cuối cùng bị bắt làm tù binh, rồi chết thảm ở đất giặc. Chỉ riêng Hồ Nguyên Trừng được tha, vì có tài, sau làm quan cho nhà Minh, có công chế tạo súng Thần cơ cho nhà Minh.  Việc cũ đã qua, nhưng vật chứng vẫn đang còn đó, Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển / Xích sắt ngầm dưới sông…như những chứng tích, rưng rưng hiển hiện trước mắt và trong tâm tưởng thi nhân, như thể một nỗi đau xót xa của lịch sử. Hai câu đề, đã thấy rõ thái độ của tác giả.

    Bốn câu thơ tiếp theo, luận về nguyên nhân của sự thành bại và anh hùng thất thế.

Nguyễn Trãi viết: Thuyền bị lật, mới tin rằng dân như nước / Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời / Hoạ phúc có manh mối, không phải một ngày / Anh hùng để hận mấy nghìn năm sau…

   Những âm thanh hội trường của bài thơ trên còn vang vọng Sử sách chép rằng, khi giặc Minh chuẩn bị xua quân sang xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Ly họp bàn tìm kế chống giặc. Người con cả, Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng nói rằng: Đánh thì không sợ, chỉ sợ lòng dân không theo! Quả đúng như sự thật đã diễn ra sau đó. Về quân sự, nhà Hồ không có tướng tài, đúng hơn là không thể tập hợp được nhân tài. Bản thân Hồ Quý Ly chỉ là một nhà quân sự kém cỏi. Mấy lần làm tướng đánh nhau với quân Chiêm Thành dưới triều Trần, Hồ Quý Ly đều thua trận, bỏ cả đại quân mà chạy tháo thân, lại còn gian manh đổ tội cho người khác, thu vén công lao về cho mình. Còn tướng lĩnh ở triều nhà Hồ, phần lớn chỉ là đồ gan chuột (Ý thơ Nguyễn Mộng Tuân). Vua tôi như vậy, làm sao thắng giặc?

Huống nữa nhà Hồ mới đoạt vương quyền từ nhà Trần suy thoái, lòng dân chưa theo, làm sao có sức mạnh giữ cho con thuyền đất nước không bị lật? Dẫu có đóng cọc trước sóng biển, có giăng xích sắt ở cửa sông, có tìm đất hiểm xây thành đá vững bền, cũng chẳng thể nào ngăn được quân giặc dữ, khi mà lòng dân không theo!
Nên chăng có hệ thống hội thảo chuyên đề về bài thơ này
 Hiện nay, hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống truyền thanh trong cả nước đã phát lại nhiều về bài thơ này./.

[[Một ví dụ hay về xây dựng thế trận lòng dân hiện nay:
Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam 
 là hãng công nghệ hàng đầu về các thiết bị điện
 tử, công nghệ số thực sự Made in Việt Nam thời đại cách mạng 
công nghiệp 4.0. Các thiết bị truyền thanh AAV,
 tăng âm truyền thanh AAV được các kĩ
 sư giỏi nhất về âm thanh, ánh sáng, điện tử, tự động hóa, công 
nghệ thông tin nghiên cứu, chế tạo, được sản xuất trên dây chuyền
 hiện đại, linh kiện cao cấp. Do vậy, sản phẩm thiết bị truyền thanh
 AAV Việt Nam - made in Việt Nam chất lượng quốc tế, giá thành 
Việt Nam. Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại.
Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại.
Hãng AAV Việt Nam đã thực sự quy tụ được những tài hoa nhất để 
tạo dựng thương hiệu Made in Vietnam. Đây cũng chính 
là biết sử phát huy sức mạnh lòng dân trong thời kì cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4 rất sôi động hiện nay ]]

KHÁI NIỆM THẾ TRẬN LÒNG DÂN

    Khái niệm thế trận lòng dân 

Bài viết theo quan điểm của Âm thanh hội trường

 

Thế trận lòng dân là phạm trù hàm chứa những giá trị tinh thần, sức mạnh tinh thần trong khoa học chính trị, xã hội, nhân văn, quân sự đã và đang được sử dụng ngàng càng phổ biến ở Việt Nam. Làm sáng tỏ phạm trù này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Thế trận lòng dân là thuật ngữ chỉ trạng thái "lòng dân" trở thành thế trận được tạo lập bởi lực lượng đại biểu lợi ích quốc gia - dân tộc,... và được lực lượng đại biểu lợi ích quốc gia - dân tộc,...  sử dụng cho mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.
“Lòng dân”thuật ngữ dùng để chỉ trạng thái tâm lý, tinh thần của nhân dân, bao gồm: Thái độ, nhận thức, tình cảm, ý chí, quyết tâm, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sự đồng thuận, đồng sức, đồng lòng, niềm tin, sự ủng hộ, phục tùng, trách nhiệm của nhân dân đối với các chủ thể chính trị, quan điểm chính trị, đường lối chính trị, hoặc các vấn đề chính trị - xã hội. Do vậy, “lòng dân” được hình thành một cách tự nhiên trước tác động của ngoại cảnh, phụ thuộc vào giai cấp, lực lượng lãnh đạo nhưng không phải lúc nào cũng tin cậy, ủng hộ, phục tùng, đồng thuận với sự lãnh đạo, điều hành của giai cấp lãnh đạo. Mức độ tin cậy, phục tùng giai cấp, lực lượng lãnh đạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến vị trí, vai trò của giai cấp, lực lượng lãnh đạo.



Chiến dịch Điện Biên Phủ - Đỉnh cao của Thế trận lòng dân

Trong lĩnh vực quân sự: “Thế trận là tổng thể các biện pháp tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường (kết hợp với yếu tố địa hình trên một địa bàn cụ thể), nhằm tạo thế có lợi và phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu của các lực lượng tham gia chiến đấu để giành thắng lợi trong tác chiến. Thế trận phải phù hợp với ý định tác chiến, thế trận luôn vận động và phát triển theo các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của việc đối chọi mưu kế và cách đánh giữa hai bên đối địch”[1].
Bản thân "lòng dân" không thể trở thành thế trận, không phát huy được sức mạnh nếu nó không được tập hợp, tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng, xây dựng, phát huy theo mục tiêu thống nhất. Để yếu tố lòng dân trở thành thế trận phải có các điều kiện sau đây: “lòng dân” được khơi dậy, xây dựng, quy tụ, tập hợp; được đặt vào trạng thái, tình thế nhất định; được bố trí, triển khai trong mọi tầng lớp dân cư, mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội; được định hướng, điều khiển, dẫn dắt bởi các lãnh tụ, đảng chính trị, lực lượng đại biểu cho lợi ích quốc gia - dân tộc... để phục vụ cho những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước do các lãnh tụ, đảng chính trị, lực lượng đại biểu cho lợi ích quốc gia - dân tộc... đề ra.


[[Một cách thức xây dựng thế trận lòng dân hiện nay:
Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam 
 là hãng công nghệ hàng đầu về các thiết bị điện
 tử, công nghệ số thực sự Made in Việt Nam thời đại cách mạng 
công nghiệp 4.0. Các thiết bị truyền thanh AAV đều được các kĩ
 sư giỏi nhất về âm thanh, ánh sáng, điện tử, tự động hóa, công 
nghệ thông tin nghiên cứu, chế tạo, được sản xuất trên dây chuyền
 hiện đại, linh kiện cao cấp. Do vậy, sản phẩm thiết bị truyền thanh
 AAV Việt Nam - made in Việt Nam chất lượng quốc tế, giá thành 
Việt Nam. Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại.
Hãng AAV Việt Nam đã thực sự quy tụ được những tài hoa nhất để 
tạo dựng thương hiệu Made in Vietnam. Đó cũng chính 
là biết ứng dụng thế trận lòng dân trong thời kì cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4 rất sôi động hiện nay. 
Thế trận lòng dân trong lịch sử dựng nước, giữ nước Việt Nam là hiện tượng xã hội hiện thực. Về thực chất, đó là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của toàn dân được các lực lượng đại biểu lợi ích của dân tộc khơi dậy, quy tụ, phát huy, tạo nên nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dựng nước, giữ nước. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của toàn dân là điều kiện rất quan trọng, song bản thân nó không thể trở thành thế trận, nếu không được các lực lượng đại biểu cho lợi ích quốc gia - dân tộc khơi dậy, quy tụ, phát huy. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của mỗi người dân sẽ không có giá trị thực tiễn nếu không được thông qua hoạt động cụ thể, không được dẫn dắt, điều khiển, quy tụ về mục mục tiêu chung, phục tùng sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của lực lượng đại biểu lợi ích quốc gia - dân tộc. Nếu được huy động, tập hợp tốt sẽ có tác dụng tạo nên sức mạnh to lớn, như hàng ngàn, triệu chi nhánh đổ về dòng sông lớn mạnh; những lực lượng được bố trí tầng tầng lớp lớp, tạo ra thế có lợi nhất, vững chắc, hiểm hóc, kiên cường.




Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc

Là một dạng thế trận, thế trận lòng dân có những cấp (mức) độ khác nhau (mức cao: vững chắc, hiểm hóc, uyển chuyển linh hoạt; mức trung bình: chưa hoàn toàn vững chắc; mức thấp: sơ hở, lỏng lẻo, phân tán…). Thế trận lòng dân có cấp độ cao, yếu tố chính trị tinh thần sẽ đạt hiệu quả cao, tạo sức mạnh to lớn cho sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại, thế trận lòng dân ở cấp độ thấp, chất lượng của yếu tố chính trị tinh thần sẽ không cao.
Nếu như khái niệm thế trận phản ánh tập trung vào những yếu tố mang tính chất vật chất hữu hình, sử dụng địa hình, địa vật, tổ chức, bố trí lực lượng, vận dụng cách đánh, phương thức tác chiến..., thì thế trận lòng dân là khái niệm phản ánh tập trung vào yếu tố tinh thần, ý thức của nhân dân được khơi dậy, quy tụ, phát huy, điều khiển, dẫn dắt thông qua lực lượng vật chất để phát huy sức mạnh lớn nhất thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ cách tiếp cận trên, khái niệm thế trận lòng dân:

 Thế trận lòng dân là trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân được thể hiện ở lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận, ý chí quyết tâm, ý thức trách nhiệm công dân,... được các tổ chức, lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của quốc gia - dân tộc khơi dậy, xây dựng, quy tụ, định hướng, điều khiển, dẫn dắt, tạo nên môi trường chính trị - xã hội để huy động mọi tiềm lực, phát huy sức mạnh tổng hợp vào thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thế trận lòng dân ở Việt Nam hiện naytrạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân, được thể hiện ở lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng thuận, ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch; niềm tin, trách nhiệm, sự phục tùng của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; được Đảng, Nhà nước khơi dậy, xây dựng, quy tụ, định hướng, lãnh đạo, điều hành, tạo nên môi trường chính trị - xã hội để huy động mọi tiềm lực, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Từ khái niệm trên đây cho thấy, thế trận lòng dân ở Việt Nam hiện nay được cấu thành bởi nhiều thành tố, trong đó, các thành tố cơ bản như sau:

Nhận thức, ý chí, tình cảm, tinh thần yêu nước, đoàn kết, trách nhiệm của nhân dân được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Thế trận lòng dân chính là nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân, nhân tố nền tảng cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp toàn dân giữ nước. Nhân tố chính trị - tinh thần ấy hàm chứa nội dung cốt lõi là nhận thức, ý chí, tình cảm, tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu, trách nhiệm của nhân dân. Nhân tố đó được củng cố, giữ vững và nâng cao là cơ sở có ý nghĩa quyết định để huy động toàn dân tham gia giữ nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân giữ nước, là nhân tố nền tảng tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp giữ nước. Chính vì vậy, nhận thức, ý chí, tình cảm, tinh thần yêu nước, đoàn kết, trách nhiệm của nhân dân được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một thành tố cơ bản của thế trận lòng dân.

Niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc

Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, ý chí quật cường của toàn thể dân tộc chỉ trở thành thế trận khi được các đại biểu đại diện lợi ích dân tộc, nhà cầm quyền, lãnh tụ cách mạng phát huy, tập hợp, quy tụ, định hướng, dẫn dắt, điều khiển, lãnh đạo, quản lý. Song để đạt được sự phát huy, tập hợp, quy tụ, định hướng... phải có được niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là cơ sở để toàn dân phát huy hết tinh thần, trách nhiệm và mọi lực lượng của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, niềm tin của nhân dân Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là một thành tố cơ bản của thế trận lòng dân.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo, huy động, tập hợp, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của toàn dân thể hiện rõ nét ở việc nhân dân che chở, bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ hết lòng các lực lượng, các giai cấp giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc. Dân tộc không tách rời mối quan hệ với giai cấp. Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc của toàn dân bao giờ cũng gắn liền với một đường lối, một thể chế chính trị nhất định. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu quật cường của toàn dân chỉ trở thành thế trận một khi tinh thần và ý chí ấy được các lực lượng tiến bộ, yêu nước đại biểu cho dân tộc nhận thức đúng, khơi dậy và quy tụ nhằm mục tiêu giữ nước. Điều đó chỉ có được khi và chỉ khi có sự lãnh đạo, chỉ đạo, huy động, tập hợp, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này cũng đã khẳng định, sự lãnh đạo, chỉ đạo, huy động, tập hợp, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là thành tố cơ bản, quyết định của thế trận lòng dân.

  Sự phục tùng, trách nhiệm, ý thức làm chủ của nhân dân đối với sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

  Thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng: Lòng yêu nước, tinh thần hy sinh vì độc lập dân tộc của nhân dân không bao giờ cạn, nhưng lòng dân phải được nhận thức đúng, phải được khơi dậy, quy tụ vào mục tiêu giữ nước mới tạo nên sức mạnh, tạo nên được thế trận lòng dân. Với nhận thức như vậy, các lực lượng lãnh đạo dân tộc đã chú trọng khơi dậy, quy tụ lòng dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị là bảo vệ nền độc lập, tự do, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Điều đó chỉ đạt được khi và chỉ khi có được sự phục tùng, trách nhiệm, ý thức làm chủ của nhân dân đối với sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, sự phục tùng, trách nhiệm, ý thức làm chủ của nhân dân đối với sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là thành tố cơ bản của thế trận lòng dân.




Thanh niên cả nước tự hào hăng hái lên đường đánh giặc

Mục đích xây dựng thế trận lòng dân 

là phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong công cuộc giữ nước. Lòng dân trở thành nền tảng chính trị - tinh thần để thực hiện vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh toàn dân, phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo nhằm xây dựng đất nước, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Lòng dân đã trở thành chỗ dựa, quy định nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc ta - nghệ thuật quân sự cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc. Hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang, quân đội và tác chiến của quân đội đều dựa vào lòng dân, được dân tham gia, giúp đỡ, ủng hộ, che chở.

   Những biểu hiện của thế trận lòng dân

Thế trận lòng dân được biểu hiện trên nhiều phương diện khác nhau, trong đó, những trạng thái biểu hiện rõ nét là:
Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, thái độ chính trị trước những vấn đề trọng đại của đất nước; sự đồng sức, đồng lòng, tinh thần chịu đựng hy sinh gian khổ, ý chí chiến đấu của nhân dân.
 Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí của nhân dân - không phải là lòng yêu nước cực đoan, manh động hoặc yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà đó là lòng yêu nước chân chính được các tổ chức đảng, chính quyền các cấp có thể phát huy làm nền tảng để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, cả chế độ, quốc gia - dân tộc, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Niềm tin, sự ủng hộ, tinh thần trách nhiệm, sự đoàn kết, tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí chiến đấu của nhân dân trong giải quyết những vấn đề về quốc phòng, an ninh của đất nước là một biểu hiện nổi bật của thế trận lòng dân.
 Trạng thái tinh thần, sự đồng thuận, ý thức chấp hành của nhân dân với Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trước những tình huống quốc phòng, an ninh, tinh thần hăng hái của nhân dân tham gia xây dựng nền quốc phòng, đấu tranh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Trách nhiệm của công dân trong thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng, củng cố quốc phòng trong thời bình; trách nhiệm, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết thắng, sẵn sàng hy sinh, gian khổ... khi có tình huống quốc phòng hoặc chiến tranh xảy ra.




[1] Bộ Quốc phòng, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, Tr.931

QUAN ĐIỂM, QUAN NIỆM VỀ NHÂN DÂN, THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG LỊCH SỬ

Thế trận lòng dân là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975), nhất là sau Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991), dùng để chỉ yếu tố lòng dân được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp quy tụ, phát huy tạo thành "thế trận" thực hiện mục tiêu chính trị, nhiệm vụ cách mạng, xây dựng, bảo vệ đất nước. Trong lịch sử dân tộc trước đây cũng như lịch sử nhân loại chưa sử dụng thuật ngữ thế trận lòng dân, tuy nhiên, những vấn đề về vai trò của quần chúng nhân dân, yếu tố lòng dân, nghệ thuật sử dụng lực lượng quần chúng,... đã được các chính trị gia, các quốc gia, dân tộc trên thế giới, các triều đại phong kiến Việt Nam hết sức chú trọng. Nhiều nội dung của thế trận lòng dân đã thành những luận điểm, quan điểm chính trị, quân sự ở nhiều quốc gia trên thế giới ngay từ thời cổ đại, trải qua các quá trình lịch sử, phát triển đỉnh cao trong cách mạng XHCN.
Trong lịch sử nhân loại, các quan điểm chính trị, quân sự, triết học trước Mác đều chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của quần chúng nhân dân, thường hoặc phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, một số triết gia, chính trị học đã nhận thức được quần chúng có vai trò hết sức to lớn trong xã hội, xây dựng những học thuyết chính trị về sử dụng lực lượng quần chúng, về yếu tố lòng dân trong giành, giữ, thực thi chính quyền được nhiều vương triều phong kiến sử dụng trị vì xã hội. Tiêu biểu là: Periklès, Khổng Tử và Mạnh Tử.
Periklès là nhà triết gia, lãnh tụ dân chủ uy tín nhất của Athens (Hy Lạp cổ đại thời kỳ 461-429 trước công nguyên) đã khẳng định, thành quốc không phải do một thiểu số mà do đa số (nhân dân) cai trị... hễ ai có khả năng phục vụ nhà nước thì điều kiện tăm tối của đương sự không hề là một trở ngại.
Khổng Tử, nhà triết học lớn của Trung Hoa thời cổ đại đã coi điều kiện quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải được lòng dân. Muốn được lòng dân, nhà cầm quyền phải biết dưỡng dân, tức là chăm lo cải thiện đời sống cho dân và phải biết giáo dân, phải chịu khó lo liệu giúp đỡ cho dân, đặc biệt là phải biết làm cho dân giàu.
Mạnh Tử, một đại biểu xuất sắc của Nho giáo Trung Hoa thời cổ đại đã bàn luận rất nhiều về dân. Ông cho rằng mọi chế độ đều phải nhằm vào lợi ích của dân. Lợi ích của dân cũng là lý do tồn tại của thiên tử, chư hầu, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, có nghĩa là dân là quý hơn hết, xã tắc là thứ yếu, vua là thường vì có thể thay đổi vua, được dân là được tất cả, mất dân là mất tất cả.
Tuy nhiên, do hạn chế về thế giới quan duy tâm hoặc duy vật siêu hình nên các quan điểm trên đây chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò của sức mạnh quần chúng nhân, yếu tố lòng dân trong kiến tạo, xây dựng xã hội.
Theo suốt chiều dài lịch sử, ông cha ta đã có quan điểm về vai trò đặc biệt quan trọng của quần chúng nhân dân, của yếu tố lòng dân, sức mạnh của nhân dân trong quá trình dựng nước, giữ nước.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Lý - Trần đã nói nhiều về "ý dân", "lòng dân", coi việc "khoan thư sức dân" là điều hệ trọng bậc nhất trong các hoạt động chính trị. Trong "Chiếu dời đô", Lý Công Uẩn đã nói: "Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân..." . Trong bài "Văn lộ bố" khi tiến hành cuộc chiến tấn công quân Tống ở biên giới phía Bắc, Lý Thường Kiệt đã nói: "Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Trần Quốc Tuấn, người có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, đã nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong công cuộc giữ nước, nêu lên tư tưởng "chúng chí thành thành", ý chí của dân là bức thành kiên cố nhất của nước. Sau này, trước khi qua đời, Trần Quốc Tuấn đã tổng kết lịch sử và khẳng định: "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là sức mạnh quyết định thắng lợi của sự nghiệp giữ nước.
Thấy rõ nguyên nhân thất bại, khi chiến tranh xảy ra, nhân dân không ủng hộ, dẫn đến mất nước, Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly đã nói: “Giặc mạnh thần không sợ, chỉ sợ lòng dân không theo” . Nguyễn Trãi đã khẳng định sức mạnh vô cùng to lớn của lòng dân. Ông chỉ rõ "chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" và khẳng định một nguyên lý rất cơ bản trong giữ nước của dân tộc Việt Nam là lấy đại nghĩa, chí nhân thắng hung tàn, cường bạo. Tổng kết kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi cho rằng, nguyên nhân quan trọng giành thắng lợi là do: ''dân chúng bốn phương tụ hợp...". Phan Bội Châu - một nhà yêu nước lớn của dân tộc vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khẳng định, người cả nước không đồng tâm thì dù có anh hùng cũng không thể cứu được nước. 
Mác - Lênin khẳng định nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội; là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát rằng trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người phân tích: Ba điều kiện này đều quan trọng, nhưng quan trọng nhất là nhân hòa, nghĩa là mọi người dân đều nhất trí, đồng lòng. Người đã từng khẳng định: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Chính vì thế “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền gốc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là sự đoàn kết toàn dân, muôn người như một, Người nhấn mạnh: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm "lấy dân làm gốc", sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, xây dựng nền QPTD, chiến tranh nhân dân. Do đó, đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại, ghi vào lịch sử nước nhà như những mốc son chói lọi nhất.
Những năm gần đây, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tướng lĩnh Quân đội ta và nhiều nhà khoa học trong các công trình, bài viết của mình, đã đề cập đến thuật ngữ thế trận lòng dân với tư cách là một nội dung cơ bản của nền QPTD; của sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN. Trong đó, nhấn mạnh xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc, được Đảng ta kế thừa xuất sắc trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng sức mạnh quốc phòng BVTQ trong điều kiện mới.

       Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta chỉ rõ quan điểm cơ bản trong nhiệm vụ BVTQ hiện nay là xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ tăng cường QP-AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó nhấn mạnh: "Tăng cường sức mạnh QP-AN cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược BVTQ" . Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược BVTQ, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng chỉ rõ: "Tăng cường tiềm lực QP-AN của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân..."

Trong xây dựng thế trận lòng dân, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định xây dựng, củng cố, phát huy lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam; xây dựng lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; xây dựng sự đồng thuận xã hội; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về nhiệm vụ BVTQ, ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Như vậy, quan niệm thế trận lòng dân đã dần hình thành, nội dung thế trận lòng dân ngày càng sáng tỏ, được sử dụng ngày càng phổ biến trong các văn bản của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp và trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
Bài viết bởi tác giả: Tăng âm truyền thanhthiết bị truyền thanh

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM


Lịch sử hàng nghìn năm dựng, giữ nước của dân tộc ta cho thấy, để xây dựng và BVTQ, hầu hết triều đại đều quan tâm yếu tố lòng dân, xây dựng thế trận lòng dân; coi yếu tố lòng dân là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng, cơ sở nền tảng để thúc đẩy, phát huy các thành tố khác, có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất to lớn trong xây dựng và BVTQ. Tuy nhiên, cũng có triều đại không quan tâm đúng mức việc xây dựng thế trận lòng dân nên đã gặp thất bại, đất nước lâm nguy.
Thời kỳ bắt đầu dựng nước, giữ nước, Nước Văn Lang của các Vua Hùng ngay từ đầu đã phải đối phó với các âm mưu, ý đồ và tham vọng xâm lấn, bành trướng của các thế lực bá quyền phương Bắc. Các Vua Hùng đã tập hợp muôn họ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc. "Trước nạn ngoại xâm, sức dân đã lớn lên như thần Phù Đổng,... đánh thắng kẻ thù". Trong cộng đồng người Việt đã sớm hình thành ý thức dân tộc, ý thức giữ nước, ý thức tự lập, tự cường, được nhà nước khơi dậy, quy tụ vào công cuộc xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành, phát triển thế trận lòng dân ở thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X, nước ta rơi vào ách thống trị, đô hộ tàn khốc của các vương triều phong kiến phương Bắc, song nhân dân ta vẫn nung nấu tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. "Tinh thần và ý chí này được những người tiến bộ, tiêu biểu trong nhân dân khơi dậy, quy tụ, phát huy trong các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ, giành lại quyền độc lập dân tộc". Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa do hai Bà Trưng lãnh đạo chống lại sự thống trị của Nhà Hán (40-43); tiếp theo, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống chính quyền đô hộ Nhà Hán đã nổ ra trong suốt hai thế kỷ đầu Công nguyên. Sang thế kỷ thứ III, ngay trong thời kỳ bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã củng cố được ách thống trị và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa, vẫn bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Bà Triệu lãnh đạo chống lại sự đô hộ của Nhà Ngô (248). Cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (722); khởi nghĩa của Phùng Hưng, Phùng Hải vào năm 766; biến binh của Dương Thanh năm 819; khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ đầu thế kỷ X; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ năm 931. Đặc biệt, "năm 938, Ngô Quyền, vị tướng giỏi và là con rể của Dương Đình Nghệ, được quân của các tướng, hào kiệt địa phương cùng đông đảo nhân dân trong vùng cung cấp tình hình sông nước, địa hình, địa vật,... đánh thắng quân Nam Hán xâm lược trên sông Bạch Đằng, giành lại quyền làm chủ đất nước, mở ra thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, kết thúc hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc".
Trong thời kỳ văn minh Đại Việt, mặc dù có những lúc thăng trầm, nhưng nhìn chung các vương triều phong kiến đã ý thức khá đầy đủ vị trí, vai trò và phát huy được lòng dân trong giữ nước, thế trận lòng dân trong thời kỳ này thể hiện tập trung trước hết ở tinh thần đoàn kết, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân trong xây dựng nhà nước phong kiến thống nhất, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đặc biệt là các cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn (981); kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ hai (1075-1077) của Nhà Lý; 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của Nhà Trần ở thế kỷ XIII; kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV; Phong trào Tây Sơn chống quân Thanh ở thế kỷ XVIII; các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược khắp từ Bắc chí Nam ở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Tinh thần yêu nước, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân đã được huy động cho các cuộc kháng chiến thắng lợi, lập thành thế trận lòng dân vững chắc, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn cho các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Những lúc nào mà thế trận lòng dân được xây dựng, phát huy tốt thì lúc đó các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi và xây dựng đất nước phát triển, tiêu biểu như các giai đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thời kỳ hoàng thịnh của Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn. Trong các thời kỳ này, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân được các triều đại coi trọng, phát huy, quy tụ, "từ đó, tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để ngăn ngừa, đẩy lùi nhiều cuộc chiến tranh, đánh thắng nhiều kẻ thù lớn, như: Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh,... bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ của đất nước". Ngược lại, lúc nào việc xây dựng thế trận lòng dân không tốt thì lúc đó đất nước lâm nguy, tiêu biểu như Nhà Hồ (đầu thế kỷ XV) cai trị đất nước bằng chính sách quốc trị không hợp lòng dân, xây dựng phát triển nền nghệ thuật quân sự không dựa vào sức mạnh của toàn dân, không xây dựng được ý chí chiến đấu trong binh sỹ,.. do đó đã để đất nước rơi vào tay giặc Minh. "Triều đại chúa Trịnh ở phía Bắc, chúa Nguyễn ở phía Nam (thế kỷ XV-XVIII) luôn tranh giành quyền lực giữa các họ trong triều bằng nội chiến, khiến dân chúng lầm than oán giận, không tạo được sức mạnh của thế trận lòng dân để phát triển đất nước. Triều đình Nhà Nguyễn thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX, đã cai trị đất nước không dựa vào dân, đối lập quyền lợi của dòng họ với quyền lợi tối cao của dân tộc,... kìm hãm phong trào chống Pháp của nhân dân,... không tin vào sức mạnh của dân tộc, khiếp nhược trước sức mạnh của kẻ thù", do đó đất nước đã nhanh chóng bị thực dân Pháp xâm lược.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước lên vũ đài chính trị, chính thức tuyên bố sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, chống đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng thì tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ và có bước chuyển biến nhảy vọt theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Các tầng lớp nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, tự giác chấp hành đường lối của Đảng trong mọi việc làm, kể cả lúc thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn của cách mạng.
Ở cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khẩu hiệu giành độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới, nhân dân cả nước đồng lòng, nhất loạt đứng lên dưới ngọn cờ của Đảng tranh đấu giành độc lập, tạo ra thế trận lòng dân vững chắc để thực hiện tổng khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Sức mạnh của toàn dân được phát huy cao độ, do vậy, chỉ trong thời gian ngắn, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông từ trung ương cho đến các địa phương ... "Nhờ vậy, cuộc kháng chiến của ta liên tục phát triển từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từng bước tạo nên thế áp đảo quân địch, kết thúc chiến tranh bằng thắng lợi rực rỡ của Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" trên phạm vi cả nước.
Mặc dù, sau kháng chiến chống Pháp, có những sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nhanh chóng sửa sai nên đã tiếp tục quy tụ được lòng dân, cả nước một lòng, toàn dân đoàn kết xung quanh Đảng để tiến hành kháng chiến chống Mỹ và kiến quốc.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước anh dũng của nhân dân ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến vai trò và giá trị to lớn của thế trận lòng dân đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng. Thế trận lòng dân trong giai đoạn này thể hiện trước hết ở sự đồng thuận của toàn dân với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, biên giới nước ta ở phía Tây Nam và phía Bắc bị các thế lực thù địch phát động chiến tranh xâm lấn. Để bảo vệ biên cương Tổ quốc, Đảng ta đã kêu gọi toàn dân, toàn quân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. "Thắng lợi của quân, dân ta ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, một lần nữa chứng minh thế trận lòng dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, tiếp nối xứng đáng thế trận lòng dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược trước đây".
Trước năm 1986, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nước ta lâm vào khủng hoảng KT-XH trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và tiền đồ của chủ nghĩa xã hội giảm sút, thậm chí còn xuất hiện sự hoài nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, Đảng ta đã kiên trì thực hiện các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội; nghiêm khắc sửa chữa những khuyết điểm, từng bước tiến hành đổi mới đất nước. Đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thổi luồng gió mới vào phong trào cách mạng Việt Nam, làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn, kích thích sản xuất phát triển, làm cho tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống nhân dân ngày một cải thiện rõ rệt. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp dân cư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố thế trận lòng dân trong xây dựng và BVTQ.
Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và BVTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng chiến tranh toàn dân, thực hiện toàn dân giữ nước đã được phát huy đến đỉnh cao. Đảng ta đã nhất quán quan điểm sự nghiệp giữ nước là của toàn dân, trong đó LLVT nhân dân là nòng cốt. Trong chiến tranh giữ nước có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tạo nên thế trận thiên la địa võng đánh địch ở khắp nơi, cả rừng núi, đồng bằng và đô thị, với mọi thứ vũ khí từ hiện đại đến thô sơ, từ tên lửa đến tên tre, lưỡi lê, lưỡi mác... .
Phát huy thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, các kỳ đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X, XI của Đảng tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng kế hoạch phát triển KT-XH nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa dân tộc ta vững bước tiến vào thế kỷ XXI dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quán triệt và chỉ đạo toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị đất nước, tăng cường quốc phòng - an ninh (QP-AN) để tạo ra môi trưởng hòa bình ổn định phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại gắn liền với tăng cường sức mạnh quốc phòng BVTQ. Trên cơ sở tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, toàn dân đã đoàn kết xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thế trận lòng dân trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam trở thành thế trận toàn dân giữ nước bao hàm các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao. Công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam không chỉ thuần túy dựa vào LLVT, quân đội (mặc dù LLVT, quân đội luôn được coi là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giữ nước), mà còn dựa vào lực lượng nhân dân cả nước, dựa vào sự đồng tâm nhất trí của cả dân tộc, dựa vào thế và lực toàn diện, cả vật chất, tinh thần của đất nước. Với thế trận toàn dân giữ nước đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù, dù chúng có quân đông, vũ khí trang bị hiện đại đến đâu. "Trong điều kiện một nước mà lực lượng quân sự không nhiều, tiềm lực vật chất so với kẻ thù không lớn, thường phải "lấy yếu chống mạnh", “lấy ít địch nhiều”, thì không còn cách nào khác phải phát huy cao nhất sức mạnh chính trị - tinh thần, dựa chắc vào đó mà xây dựng thế trận toàn dân giữ nước, có như vậy mới tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn hẳn kẻ thù để giữ nước thành công".
Copy right: Tăng âm truyền thanhthiết bị truyền thanh