Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi trong trang sử vàng của dân tộc Việt Nam, là sự kết tinh sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại. Đây cũng là chiến thắng điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của tinh thần quật cường, bất khuất, trí thông minh, sáng tạo của nhân dân Việt Nam. Bảy mươi năm đã qua đi, Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, ý nghĩa trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Một trong những nguyên nhân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là Việt Nam đã xây dựng được thế trận lòng dân vững chắc; đã chiến thắng thực dân bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Điện Biên Phủ có giá trị lý luận, thực tiễn rất sâu sắc, để lại nhiều bài học quý đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đặc biệt, là bài học về xây dựng thế trận lòng dân; điều đó được thể hiện trên một số vấn đề sau đây:
Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo nên thế trận lòng dân vững chắc, phát huy cao độ nghệ thuật "lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều" làm nên chiến thắng Điện Biên phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng và phát huy được thế trận lòng dân, huy động được tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, với tinh thần toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến… Sự kết hợp huy động khả năng hậu cần tại chỗ và đưa từ hậu phương chiến lược ra đã góp phần cung cấp nhanh chóng các nhu cầu hậu cần cho chiến dịch… Đây là “cái” đã làm cho quân Pháp bị bất ngờ và là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Navarre cùng Bộ chỉ huy của ông ta mắc sai lầm về đối phương và chấp nhận kết cục thảm bại.
Bộ Tổng chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ
Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương mở hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc chính thức mở màn từ 14-10-1952. Sau ba tháng chiến đấu, ngày 10-12-1952 chiến dịch toàn thắng. Giải phóng Tây bắc, quân và dân ta làm chủ một địa bàn chiến lược rộng tới 44.300 km2 với số dân số 440.000 người, chúng ta có dân có đất - điều kiện tiên quyết để tiếp tục các hoạt động xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân tại địa bàn này (trong đó có thế trận lòng dân). Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá: “Thu đông 1952 là thu đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động... Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta về kỹ thuật, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch…”.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp và quyết định chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng Cung cấp mặt trận Trung ương do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Quân và dân ta từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng ở Tây Bắc đến vùng địch hậu và căn cứ kháng chiến đều tập trung mọi sức lực, của cải cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Phối hợp với Điện Biên Phủ, các chiến trường trên toàn Đông Dương như Thượng Lào, Trung Lào, Tây Nguyên... đồng loạt tiến công làm cho kẻ thù bị phân tán, không ứng cứu được cho nhau.
Trong quá trình diễn ra chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn theo dõi sát diễn biến tình hình chiến dịch. Người đã nhiều lần trực tiếp nói chuyện, gửi thư khen, động viên cán bộ chiến sĩ, dân công tại mặt trận và nhân dân các địa phương nhằm phát huy cao độ những giá trị tinh thần - một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa và là nội dung cốt lõi của thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Như vậy, có thể thấy, Đảng ta, trực tiếp là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một tầm nhìn chiến lược, chuẩn bị từng bước thế trận lòng dân trên địa bàn này để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên phủ hai năm sau đó.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
Sau chiến thắng Tây Bắc sức mạnh của thế trận lòng dân cả nước tiếp tục được tăng cường do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, chỉnh quân và chỉnh đảng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vấn đề độc lập dân tộc và người cày có ruộng trở thành mục tiêu tranh đấu trực tiếp của dân tộc Việt Nam. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”. Giải quyết vấn đề ruộng đất và các quan hệ kinh tế gắn liền với ruộng đất thực chất là từng bước giải phóng nông dân, là tăng cường thực lực kháng chiến.
Giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất là việc làm trực tiếp bồi dưỡng sức dân và tạo dựng niềm tin của nông dân với cuộc chiến đấu mà họ là lực lượng tham gia đông đảo nhất. Niềm tin vào Đảng và Hồ Chủ tịch, lòng yêu nước, ý chí và tinh thần kháng chiến của nhân dân-yếu tố tạo dựng nên sức mạnh của “thế trận lòng dân” được phát huy mạnh mẽ, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến ở giai đoạn chuẩn bị bước vào tổng phản công. Đối với nhân dân các dân tộc Tây Bắc vừa được giải phóng, giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất như liều thuốc kích hoạt, làm tăng sự đồng thuận về mặt chính trị, tinh thần và sức mạnh vật chất đóng góp cho cuộc kháng chiến nói chung, cho trận quyết chiến chiến lược nói riêng trên một hướng chiến trường đặc biệt quan trọng nhưng lại cách rất xa căn cứ địa cách mạng Việt Bắc.
Tại chiến trường Tây Bắc và Chiến dịch Điện Biên Phủ, thắng lợi của giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất thực sự tạo cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc hăng hái tham gia nhiều hoạt động phục vụ chiến dịch, đóng góp hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm cho mặt trận; nhân dân địa phương, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị, hàng vạn dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong thêm tin tưởng vào Chính phủ và Hồ Chủ tịch, quyết tâm cao độ trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng chịu đựng, vượt qua gian khổ, hy sinh để giành chiến thắng.
Cùng với tiến hành giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất, trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đã tiến hành tổ chức chỉnh Đảng, chỉnh quân. Mục đích của việc này nhằm nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm, lập trường vô sản, quán triệt tình hình nhiệm vụ, đấu tranh chống các biểu hiện cá nhân, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tạo sự nhất trí cao trong đội ngũ cán bộ của Đảng và các cơ quan của Chính phủ. Kết quả của việc chỉnh Đảng, chỉnh quân không những làm cho tinh thần, sức mạnh của mỗi người, của tổ chức đảng, của Quân đội được nâng lên rõ rệt mà còn tác động, ảnh hưởng tích cực tới tinh thần của nhân dân. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Quân đội tiếp tục được củng cố và tăng cường. Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào thi đua ái quốc với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”. Người kêu gọi toàn dân, toàn quân dốc sức cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và chiến dịch. Trên mặt trận văn hóa, một nền văn hóa mới mang bản sắc dân tộc, dân chủ được xây dựng theo phương châm “dân tộc, khoa học, đại chúng” đã thực sự trở thành nền tảng tinh thần cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Điều đó đã cho thấy, vì sao Chiến dịch Điện Biên Phủ có quy mô rất lớn, diễn ra trong một thời gian dài, trên một địa bàn rừng núi xa hậu phương, vận tải, tiếp tế rất khó khăn, thời tiết bất lợi, sinh hoạt của bộ đội Việt Nam rất gian khổ và thiếu thốn. Đặc biệt phải chiến đấu với đối thủ có trang bị mạnh, phải đánh trong điều kiện ác liệt, liên tục căng thẳng... vậy mà, quân và dân Việt Nam vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Chính phủ “Cụ Hồ”; đồng thời cũng phần nào lý giải vì sao người Pháp lại thất bại, người Pháp phải kinh hoàng. Điều mà trong cuộc chiến này, từ Chính phủ Pháp đến những tướng lĩnh cao cấp nhất của họ vẫn chưa thể giải thích được.
Hai là, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, huy động cao độ sự tham gia tích cực của nhân dân tạo thế trận lòng dân vững chắc.
Nhân dân từ khắp nơi, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, đã tham gia vào cuộc kháng chiến bằng nhiều hình thức khác nhau. Họ cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, và các nhu yếu phẩm khác cho bộ đội. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong đã tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí, mở đường, xây dựng công sự, tạo nên một hậu phương vững chắc cho chiến dịch. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong đã tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí, mở đường, xây dựng công sự. Họ đã làm việc không ngừng nghỉ, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ để hỗ trợ bộ đội trên chiến trường.
Lá cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trong diễu hành chiến thắng
Trong thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch, Chính phủ và các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và và các địa phương thuộc vùng tự do của Khu IV đã huy động được hàng vạn dân công và thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường, làm đường giao thông và các công việc phục vụ hỏa tuyến. Tại chiến trường Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ, thắng lợi của giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất thực sự tạo cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc hăng hái tham gia các hoạt động phục vụ chiến dịch, đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm cho mặt trận; nhân dân địa phương, cán bộ chiến sĩ các đơn vị, hàng vạn dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong thêm tin tưởng vào Chính phủ và Hồ Chủ tịch, quyết tâm cao độ trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh cho chiến thắng.
Ba là, Khơi dậy, quy tụ tối đa tinh thần đoàn kết, ý chí quyết chiến, quyết thắng, chung sức đồng lòng của toàn dân.
Nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã đồng lòng, chung sức với bộ đội, tạo nên một bức tường đồng vững chắc. Sự gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa quân và dân đã tạo nên sức mạnh to lớn, giúp vượt qua mọi thử thách. Sự đồng lòng, chung sức của nhân dân đã tạo nên một bức tường đồng vững chắc. Nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã đồng lòng, chung sức với bộ đội, tạo nên sức mạnh to lớn, giúp vượt qua mọi thử thách. Tinh thần đoàn kết và quyết tâm cao của nhân dân đã tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Thành công nổi bật trong xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Đảng ta đã hoạch định được đúng đắn đường lối, chính sách cụ thể nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết của toàn dân, thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch đã đề ra. Khối đại đoàn kết dân tộc đã được xây dựng trên cơ sở truyền thống yêu nước, đường lối kháng chiến của Đảng với mục tiêu là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là sợi chỉ đỏ, chất keo gắn kết mọi tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh để nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Ngày 3-3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất tổ chức Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt. Mặt trận Liên Việt ra đời, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và làm hậu thuẫn vững chắc cho Đảng, chính quyền dân chủ nhân dân động viên và tập hợp mọi lực lượng tham gia kháng chiến. Với mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, các hội tương tế, ái hữu; các hội cứu quốc, đoàn thể và các tổ chức thành viên của Mặt trận Liên Việt đã tập hợp, đoàn kết, giác ngộ và tổ chức các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi cá nhân yêu nước trong nhân dân để hình thành và phát triển lực lượng cách mạng rộng lớn thực hiện nhiệm vụ của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân và đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bồi dưỡng “tín tâm và quyết tâm” kháng chiến của nhân dân, nâng cao vai trò và uy tín của lực lượng lãnh đạo cách mạng, nhân dân đã đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải cùng với Quân đội đưa kháng chiến đến thành công.
Mặc dù Pháp đã sử dụng tận lực không quân để phá tuyến đường vận tải, nhưng với tinh thần dũng cảm, quên mình, dân công cùng các chiến sĩ công binh, vận tải đã vô hiệu hoá mọi thủ đoạn của kẻ thù. Dưới sự uy hiếp thường xuyên của máy bay địch, những xe ô tô vận tải vẫn vượt đèo Pha Đin, những chiếc mảng chở từ 2 tạ đến 3 tạ gạo do dân công phụ trách theo dòng Nậm Na vượt hơn 100 ghềnh thác; những đoàn xe đạp thồ, mỗi chiếc chở hàng tạ gạo (cao nhất tới 352kg) vượt hàng trăm km đường đèo dốc ngày đêm chuyển hàng ra tiền tuyến…
Theo thống kê của Tổng cục Hậu cần, số lương thực, thực phẩm được huy động tính tại gốc là 20.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt, hàng nghìn tấn thực phẩm. Chỉ tính riêng số được chuyển ra mặt trận là 23.056 tấn gạo, 266 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm. Riêng “nhân dân Tây Bắc đã cung cấp cho tiền tuyến 47% nhu cầu gạo, 43% nhu cầu thịt, 100% rau tươi, 100% thuyền và ngựa được sử dụng, cung cấp 14% số ngày công chủ yếu từ trung tuyến ra tiền tuyến” …
Bốn là, công tác hậu cần, kỹ thuật và tiếp tế của thế trận lòng dân vững chắc tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Đặc biệt, Chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954 là một chiến dịch lớn, dài ngày, trên địa bàn rừng núi ở cách xa vùng tự do của ta (từ Việt Bắc sang tới Điện Biên Phủ khoảng 200km, từ Thanh - Nghệ - Tĩnh ra tới Điện Biên Phủ khoảng 500-700km). Khó khăn lớn nhất của Quân đội và nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là đảm bảo hậu cần (riêng gạo cần có khoảng 80 tấn/ngày).
Để giành được thắng lợi, quân và dân ta đã khắc phục nhiều khó khăn do mưa lũ gây nên, chủ động triển khai tuyến vận tải, tiếp tế trên quãng đường dài để bảo đảm cung cấp kịp thời đạn dược, lương thực, thuốc men và lực lượng mới cho chiến dịch diễn ra dài ngày với lượng tiêu thụ, tiêu hao lớn chưa từng có. Theo số liệu từ Hội đồng Cung cấp Trung ương của Mặt trận, trong cả Chiến cục Đông Xuân 1953-1954, ta đã huy động gần 40.000 tấn gạo, hàng nghìn tấn thực phẩm, hơn 500.000 dân công, 23.000 xe đạp thồ, hơn 4.000 thuyền và các lực lượng vận tải khác.
Nhân dân đã cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men và các nhu yếu phẩm khác cho bộ đội. Họ cũng tham gia vào việc vận chuyển, bảo vệ các tuyến đường tiếp tế, đảm bảo cho chiến dịch diễn ra thuận lợi.
Năm là, công tác tuyên truyền động viên, tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu, và sự đồng lòng của toàn dân đã được khơi dậy mạnh mẽ, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Tuyên truyền đã nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi người dân đối với cuộc kháng chiến, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, tạo niềm tin và hy vọng vào chiến thắng cuối cùng. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sức mạnh của quân đội và sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến; hiểu rõ vai trò của mình trong chiến dịch và sẵn sàng đóng góp sức lực, tài sản để hỗ trợ bộ đội. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các bài báo, bài thơ đã khơi dậy tinh thần yêu nước, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân, tạo nên một không khí phấn khởi, quyết tâm cao.
Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ được tiến hành hết sức khẩn trương; từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4, vùng mới giải phóng Tây Bắc, đến vùng du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ đều dồn sức người, sức của cho Điện Biên, cả hậu phương hùng hậu một lòng hướng ra mặt trận.
Nhân dân ở các vùng tự do và vùng tạm chiếm đều hăng hái tự nguyện đóng góp thuế nông nghiệp, bán thực phẩm, đóng góp tiền của cung cấp cho bộ đội ở tiền tuyến; nhiều gia đình mang cả thóc giống cung cấp cho bộ đội; cùng với đó là hàng chục vạn dân công và thanh niên xung phong được huy động phục vụ chiến dịch. Đặc biệt, khi địch phá đường, thanh niên xung phong, bộ đội, dân công hoả tuyến lại làm đường, mở thêm đường mới; quân và dân ta đã tận dụng cả đường bộ và đường sông và sử dụng mọi phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến hiện đại làm tăng thêm khả năng và khối lượng vận chuyển, tiếp tế… Nhờ đó, hậu phương vững chắc đã được xây dựng, đảm bảo cho chiến dịch diễn ra thuận lợi.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là bản anh hùng ca của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”, mà còn đánh dấu sự phát triển cao về nghệ thuật quân sự Việt Nam và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học về xây dựng thế trận lòng dân. Thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên phủ là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đã có thêm nhiều nội dung mới, song “thế trận lòng dân” vẫn là chỗ dựa vững chắc, nguồn sức mạnh chính trị tinh thần của nền quốc phòng toàn dân; là một bộ phận trong thế trận chung của cả nước, gắn kết tất cả các vùng lãnh thổ, các lĩnh vực hoạt động của mọi tầng lớp nhân dân hướng vào mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.
Post by Âm thanh hội trường
Điện Biên Phủ - Khúc Khải Hoàn
Trả lờiXóaTrên đỉnh núi cao, cờ đỏ tung bay,
Điện Biên Phủ, chiến thắng vang dội,
Quân dân ta, lòng quyết không lay,
Đập tan quân thù, giành lại đất trời.
Những ngày tháng gian nan, khổ cực,
Đồng lòng, chung sức, vượt mọi gian nguy,
Từ rừng sâu, núi thẳm, đồng bằng,
Tất cả vì một mục tiêu duy nhất.
Tiếng súng vang rền, trời đất rung chuyển,
Quân thù hoảng loạn, tan tác khắp nơi,
Chiến thắng Điện Biên, khúc khải hoàn,
Lịch sử ghi danh, muôn đời sáng ngời.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của “thế trận lòng dân”. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng lịch sử này vì những lý do sau:
Trả lờiXóa1. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương, giải pháp đúng đắn để khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của nhân dân. Sự lãnh đạo này đã tạo ra một thế trận lòng dân vững chắc, làm nền tảng cho mọi chiến thắng.
2. Sự đoàn kết và ủng hộ của nhân dân: Nhân dân Việt Nam từ mọi tầng lớp, giai cấp đã đoàn kết, chung sức, chung lòng ủng hộ cuộc kháng chiến. Họ không chỉ cung cấp lương thực, thực phẩm, mà còn tham gia vận chuyển vũ khí, đạn dược và xây dựng các công trình quân sự.
3. Tinh thần yêu nước và quyết tâm chiến đấu: Tinh thần yêu nước và quyết tâm chiến đấu của nhân dân đã tạo nên một sức mạnh vô địch. Nhân dân sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
4. Chiến tranh nhân dân: Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả của chiến tranh nhân dân, nơi mà mọi người dân đều tham gia vào cuộc chiến. Sự tham gia của nhân dân đã làm cho quân đội ta mạnh mẽ hơn, linh hoạt hơn và có khả năng chiến đấu bền bỉ hơn.
Những yếu tố này đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp, giúp quân và dân ta đánh bại quân đội viễn chinh Pháp, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Chiến thắng Điện Biên - Khúc Ca Khải Hoàn
Trả lờiXóaTrên đỉnh núi cao, cờ đỏ tung bay,
Điện Biên Phủ, chiến thắng vang dội,
Quân dân ta, lòng quyết không lay,
Đập tan quân thù, giành lại đất trời.
Những ngày tháng gian nan, khổ cực,
Đồng lòng, chung sức, vượt mọi gian nguy,
Từ rừng sâu, núi thẳm, đồng bằng,
Tất cả vì một mục tiêu duy nhất.
Tiếng súng vang rền, trời đất rung chuyển,
Quân thù hoảng loạn, tan tác khắp nơi,
Chiến thắng Điện Biên, khúc khải hoàn,
Lịch sử ghi danh, muôn đời sáng ngời.
Chiến thắng Điện Biên - sức mạnh của Thế trận lòng dân
Trả lờiXóa(sôi nổi hùng tráng)
(Verse 1)
Trên đỉnh núi cao, cờ đỏ tung bay,
Điện Biên Phủ, chiến thắng vang dội,
Quân dân ta, lòng quyết không lay,
Đập tan quân thù, giành lại đất trời.
(Chorus)
Thế trận lòng dân, sức mạnh vô biên,
Đoàn kết một lòng, vượt mọi gian nguy,
Từ rừng sâu, núi thẳm, đồng bằng,
Tất cả vì một mục tiêu duy nhất.
(Verse 2)
Những ngày tháng gian nan, khổ cực,
Đồng lòng, chung sức, vượt mọi gian nguy,
Tiếng súng vang rền, trời đất rung chuyển,
Quân thù hoảng loạn, tan tác khắp nơi.
(Chorus)
Thế trận lòng dân, sức mạnh vô biên,
Đoàn kết một lòng, vượt mọi gian nguy,
Từ rừng sâu, núi thẳm, đồng bằng,
Tất cả vì một mục tiêu duy nhất.
(Bridge)
Lòng dân như sóng, cuộn trào biển khơi,
Đưa ta đến bến bờ tự do,
Chiến thắng Điện Biên, khúc khải hoàn,
Lịch sử ghi danh, muôn đời sáng ngời.
(Chorus)
Thế trận lòng dân, sức mạnh vô biên,
Đoàn kết một lòng, vượt mọi gian nguy,
Từ rừng sâu, núi thẳm, đồng bằng,
Tất cả vì một mục tiêu duy nhất.
(Outro)
Điện Biên Phủ, khúc ca khải hoàn,
Lòng dân ta, mãi mãi sáng ngời.
Thế trận lòng dân là một khái niệm đặc biệt quan trọng trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, biểu tượng cho sự đồng lòng, quyết tâm và sức mạnh của dân tộc. Đó là sự liên kết mạnh mẽ giữa nhân dân và các lực lượng bảo vệ quốc gia, tạo nên một khối đoàn kết không thể phá vỡ.
Trả lờiXóaTrong các giai đoạn chiến tranh và kháng chiến, từ thời kỳ chống quân Nguyên - Mông cho đến cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, thế trận lòng dân đã phát huy vai trò to lớn. Nhân dân không chỉ là những người đứng sau, mà còn là những chiến sĩ kiên cường trên mọi mặt trận, từ cung cấp lương thực, quân trang, đến tham gia chiến đấu trực tiếp.
Hơn thế nữa, thế trận lòng dân không chỉ là sự đoàn kết trong chiến đấu, mà còn là sự đoàn kết trong xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời kỳ hoà bình, lòng dân chính là nền tảng để thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự đồng thuận của nhân dân chính là sức mạnh giúp đất nước vượt qua mọi khó khăn và thử thách.
Ngày nay, thế trận lòng dân vẫn còn nguyên giá trị, khi nhân dân là những người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là một bài học quý báu và là nguồn động lực lớn lao để Việt Nam tiến bước trên con đường phát triển bền vững và thịnh vượng.
Trận Điện Biên Phủ là một trong những trận đánh lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam, diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 thái 5 năm 1954. Trong chiến dịch này, lòng dân Việt Nam đã thể hiện rất mạnh mẽ và đoàn kết. Người dân đã đóng góp rất nhiều, từ cung cấp vật chất, tài chính đến hỗ trợ tinh thần cho quân đội. Họ đã tổ chức các cuộc tình nguyện, gửi đồ cứu tế, thậm chí là đứng lên bảo vệ tỉnh, thành, quê hương.
Trả lờiXóaLòng dân đoàn kết và sẵn sàng hy sinh cho đất nước đã góp phần lớn vào thành công của chiến dịch Điện Biên Phủ, giúp Việt Nam đạt được thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
"Thế trận lòng dân" trong chiến dịch Điện Biên Phủ là một yếu tố then chốt, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử của quân và dân Việt Nam. Đây là sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh quân sự và sức mạnh tinh thần, dựa trên nền tảng đoàn kết toàn dân tộc.
Trả lờiXóaVai trò của "thế trận lòng dân":
Hậu phương vững chắc:
Nhân dân đã đóng góp sức người, sức của, đảm bảo hậu cần cho chiến dịch.
Các đoàn dân công hỏa tuyến không quản ngại khó khăn, gian khổ, vận chuyển lương thực, đạn dược ra tiền tuyến.
Sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã tạo nên một hậu phương vững chắc, đảm bảo nguồn cung cấp cho chiến dịch.
Sức mạnh tinh thần:
Tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta được nâng cao.
Sự đoàn kết, gắn bó giữa quân và dân tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
"Lòng dân" là yếu tố cốt lõi để khơi dậy và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc.
Chiến tranh nhân dân:
"Thế trận lòng dân" thể hiện rõ nét tư tưởng chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng cho sức mạnh của toàn dân tộc khi đoàn kết, đồng lòng chống lại kẻ thù xâm lược.
Sự ủng hộ của nhân dân là yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa.
Biểu hiện của "thế trận lòng dân":
Sự đóng góp to lớn của nhân dân trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí cho chiến dịch.
Tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của quân và dân ta.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân trong chiến đấu.
Sự ủng hộ của dư luận quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt Nam.
Tóm lại, "thế trận lòng dân" là một nhân tố quan trọng, góp phần quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là bài học quý giá về sức mạnh của đoàn kết toàn dân tộc, về tinh thần yêu nước và ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thế trận lòng dân trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định chân lý: "Dân là gốc, dân là nền tảng của mọi thắng lợi". Sự ủng hộ, hy sinh và đoàn kết của nhân dân đã góp phần làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam.
Trả lờiXóa"Thế trận lòng dân" trong Chiến thắng Điện Biên Phủ là một yếu tố quan trọng góp phần vào chiến thắng lịch sử này. Đây là sự kết hợp giữa sức mạnh tinh thần của nhân dân và chiến lược quân sự tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trả lờiXóaCụ thể, "thế trận lòng dân" thể hiện qua sự đoàn kết, quyết tâm và tinh thần yêu nước của toàn dân, từ những người lính đến dân công, thanh niên xung phong. Họ đã cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để xây dựng hệ thống hậu cần, vận chuyển lương thực, vũ khí và hỗ trợ chiến đấu. Sự gắn kết giữa quân đội và nhân dân đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp, giúp đánh bại đội quân viễn chinh Pháp mạnh mẽ
"Thế trận lòng dân" trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự kết hợp và tập trung sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với nhân dân các dân tộc Việt Nam. Đây là yếu tố then chốt tạo nên chiến thắng lịch sử "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Trả lờiXóaVai trò của "thế trận lòng dân" trong chiến dịch Điện Biên Phủ:
Huy động sức người, sức của:
Hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực, đạn dược ra tiền tuyến.
Nhân dân sử dụng gồng gánh và xe đạp thồ để vận chuyển hàng hóa.
Sự đóng góp của nhân dân cả về tinh thần và vật chất đã đảm bảo hậu cần vững chắc cho chiến dịch.
Tạo sức mạnh tổng hợp:
"Thế trận lòng dân" là sự gắn kết sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến.
Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được khơi dậy và phát huy cao độ.
Sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù.
Chiến tranh nhân dân:
Đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo đã được phát huy.
Lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Phong trào địch, ngụy vận thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Hỗ trợ chiến đấu:
Trong vùng tạm chiếm, nhân dân đấu tranh chống bắt lính, chống tập trung dân, hỗ trợ bộ đội trong chiến đấu.
Lực lượng đặc công tiêu diệt các vị trí và lô cốt của địch.
Ý nghĩa của "thế trận lòng dân" trong chiến thắng Điện Biên Phủ:
Thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khẳng định vai trò quyết định của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Để lại bài học quý giá về xây dựng và phát huy "thế trận lòng dân" trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tóm lại, "thế trận lòng dân" là một trong những yếu tố quyết định làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, thể hiện sức mạnh của toàn dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.