Thứ Hai, 14 tháng 3, 2022

Xây dựng thế trận lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

 Xây dựng “thế trận lòng dân” là một nội dung quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phản ánh sự tính độc đáo, sáng tạo, tích cực, chủ động của nghệ thuật quân sự, chính trị Việt Nam. Hiện nay, việc nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và định hướng giải pháp xây dựng “thế trận lòng dân” có ý nghĩa cấp thiết, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, là một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, dân tộc ta đã sớm biết xây dựng, củng cố nền quốc phòng dựa trên sức mạnh toàn dân. Để xây dựng nền QPTD vững mạnh, đòi hỏi phải xây dựng 3 nội dung là: lực lượng, tiềm lực và thế trận. Trong nội dung xây dựng thế trận thì xây dựng “thế trận lòng dân” là một nội dung cơ bản, mang tính quyết định. Bởi “thế trận lòng dân” chính là nhân tố chính trị, tinh thần trong sức mạnh của nền QPTD. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy[1]. Đề cập về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[2]. Sách Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và cả hệ thống chính trị[3].

Thuật ngữ “lòng dân” phản ánh trạng thái chính trị - tinh thần của người dân trong xã hội. “Lòng dân” được biểu hiện ở tình cảm, lòng yêu nước, ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết, niềm tin, sự đồng thuận của người dân với chế độ chính trị của đất nước. “Lòng dân” là yếu tố tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. Theo đó, “thế trận lòng dân” trong nền QPTD hiện nay mà chúng ta đang xây dựng là “lòng dân” được khơi dậy, quy tụ và phát huy, tạo nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động hình thành nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Do đó, “thế trận lòng dân” là nền tảng vững chắc để xây dựng nền QPTD vững mạnh; là mạch nguồn để động viên mọi nguồn lực của đất nước cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Có nhiều yếu tố cấu thành nên “thế trận lòng dân”, trong đó, những yếu tố chủ yếu đó là: lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng lòng, ý thức tự lực, tự cường của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhận thức của Nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm của Nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong xây dựng nền QPTD. Thế trận lòng dân” được biểu hiện tập trung ở toàn dân đoàn kết thành một khối vững chắc quanh Đảng và Nhà nước, cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Mục đích xây dựng “thế trận lòng dân” là nhằm tạo cơ sở, nền tảng chính trị - tinh thần để huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, giữ vững niềm tin, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu truyền thống của dân tộc ta về sức mạnh toàn dân, Đảng ta luôn thực hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, coi Nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, của nền QPTD nói riêng. Mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính mục tiêu đó, đã đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã và đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử: kinh tế tăng trưởng khá, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu nêu trên có được là nhờ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn, hợp lòng dân, phát huy sức mạnh của toàn dân. Đảng ta đã chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế,tác động mạnh mẽ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0), bên cạnh những thuận lợi cũng đặt ra không ít thách thức đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông đang diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi ta phải thực hiện tốt phương châm “kiên quyết, kiên trì” trong bảo vệ chủ quyền biển đảo. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đang diễn biến hết sức phức tạp. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 vẫn đang tiềm ẩn nguy cơ khó lường, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn tới bất ổn xã hội, trở thành thách thức lớn đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn… Đáng chú ý là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Cùng với đó, tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Những thách thức trên đang đặt ra cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc những yêu cầu mới. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vấn đề mang tính quyết định là phải xây dựng và phát huy được “thế trận lòng dân” vững chắc. Nếu không xây dựng được “thế trận lòng dân”, để “lòng dân” ly tán, nhân dân mất liềm tin vào Đảng, vào Nhà nước, thì đó là nguy cơ mất nước, mất chế độ. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại”[4]. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi phải tiến hành nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. 

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một giá trị bền vững, nhân tố quan trọng hàng đầu, tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa, tinh thần và trở thành truyền thống, bản lĩnh Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử; cơ sở vững chắc gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; đồng thời, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, được định hướng và thể hiện tập trung ở lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Yêu nước gắn liền với yêu chế độ XHCN là đặc trưng văn hóa - chính trị của Nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Bởi vậy, cần phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước nhằm định hướng, quy tụ sức mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần tăng cường “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy chủ nghĩa yêu nước trong tình hình hiện nay, cần tăng cường giáo dục, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; tinh thần đại đoàn kết toàn dân; nâng cao nhận thức cho mỗi người dân Việt Nam, không để tình cảm và tâm lý dân tộc bị lợi dụng kích động, dẫn tới những hành động cảm tính, quá khích, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài lợi dụng gây ra tình hình bất ổn trong đời sống chính trị - xã hội. Cùng với đó, phải đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa yêu nước cực đoan. Phải làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, chuyển hóa thành bản lĩnh và trí tuệ của con người, dân tộc Việt Nam, góp phần bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và phát triển bền vững. Đồng thời, nâng cao ý thức công dân, làm cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo,... đều có nhận thức đúng, trách nhiệm cao, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với sự nghiệp tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Hai là, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, giữ vững và tăng cường lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định kết quả xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới. Để làm được điều đó, cần tập trung nâng cao nhận thức, niềm tin của Nhân dân về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điểm mấu chốt là Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình. Trong thời gian qua, toàn Đảng đã tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng và đạt được kết quả bước đầu. Thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII và XIII), gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí; khắc phục tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền; đồng thời không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống của mỗi cán bộ, đảng viên, đảm bảo cho họ thực sự là “công bộc” của dân, “dĩ công vi thượng”, luôn là tấm gương sáng để Nhân dân học tập và noi theo. Cùng với đó, phải phát huy tinh thần làm chủ của Nhân dân và các tổ chức quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở và giám sát hoạt động của chính quyền các cấp. Tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương cần thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích chính đáng của Nhân dân bằng những chính sách thiết thực, hiệu quả; đồng thời, luôn gần dân, gắn bó với dân, nắm tâm tư, nguyện vọng của người dân để kịp thời có chủ trương, giải pháp phù hợp. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[5] mà Đại hội XIII đã vạch ra. Đó là hành động thiết thực, hiệu quả nhất để phản bác mọi quan điểm sai trái, thù địch, hòng kích động, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân.

Ba là, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, tạo sự đồng thuận xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. 

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm nhất quán, đường lối chiến lược xuyên suốt của Đảng ta. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” và “giữ nước từ khi nước còn chưa nguy”. Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường đoàn kết quốc tế theo tinh thần thêm bạn, bớt thù, giữ cho “trong ấm, ngoài êm” sẽ tạo sức mạnh, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế trong tiến trình hội nhập, phát triển. Do đó, trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” phải thường xuyên coi trọng nội dung này.

Để làm được điều đó, cần giáo dục, nâng cao nhận thức cho Nhân dân quan điểm của Đảng về đoàn kết dân tộc; hiểu rõ mục tiêu, tầm quan trọng của quan điểm đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, làm cho Nhân dân xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng vào mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đoàn kết dân tộc phải dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; giải quyết tốt các mối quan hệ quốc tế theo tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động làm ly tán lòng dân, phá hoại “thế trận lòng dân” của các thế lực thù địch. 

Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân”, cần phải thấu suốt phương châm chỉ đạo của Đảng “gắn chặt xây với chống”. Cùng với việc chăm lo đảm bảo quyền lợi cho Nhân dân, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, phải tuyên truyền, giáo dục cho Nhân dân nhận thức rõ tình hình, đề cao cảnh giác cách mạng và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực ngay từ cơ sở. Trọng tâm là đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, qua đó giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng ở từng địa phương, cơ sở.

Năm là, phát huy vai trò của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”.

Quân đội Nhân dân Việt Nam với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng dân”. Để tích cực góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới; chăm lo xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng dân”; thực hiện tốt công tác dân vận trong toàn quân, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nhằm phá vỡ “thế trận lòng dân”, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tình hình đại dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ cần giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, xác định rõ nhiệm vụ chống dịch là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, luôn nêu cao tinh thần “chống dịch như chống giặc”, không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp dân, cùng Nhân dân chiến thắng đại dịch. Có như vậy, Quân đội ta mới thực sự là đội quân của dân, do dân và vì dân; tích cực góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Tóm lại, “thế trận lòng dân” có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là loại hình thế trận đặc biệt, là mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng mới, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề, đòi hỏi các cấp, các ngành mà trước hết là cấp ủy đảng các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát huy vai trò của mọi lực lượng, mọi tổ chức chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, làm nền tảng tinh thần xây dựng nền QPTD vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I.

4. Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.

5. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tập 41.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5

7. Quốc hội, Luật số 22/2018-QH14 ngày 08 tháng 6 năm 2019 Luật Quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018.

8. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

 



* Chủ nhiệm Chính trị, Học viện Quốc phòng, 193, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội; Mobile 0912215969

[1] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tập 41, tr.147.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.179.

[3] Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.49.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.157.

 

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.173.

Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2022

Xây dựng, phát triển sức mạnh mềm Việt Nam hiện nay

            “Sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm” là khái niệm do nhà nghiên cứu người Mỹ Giô-xép Nai (Joseph S. Nye Jr.), nguyên trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, chính thức đưa ra vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Trong cuốn sách Tương lai của quyền lực, Joseph S. Nye Jr. định nghĩa: “quyền lực mềm là khả năng tác động người khác qua phương tiện chiêu dụ, gồm khung nghị trình, thuyết phục, và khơi gợi hành vi thu hút tích cực để đạt được kết quả mong muốn”[1]. Đồng thời  Joseph S. Nye Jr. lý giải nguồn của sức mạnh mềm đến từ ba tài nguyên cơ bản: “văn hóa (ở những nơi mà nó thu hút các nước khác), chuẩn mực chính trị (khi nó hợp lòng người trong và ngoài nước), và chính sách đối ngoại”[2].


 Theo quan niệm của Thành Nhật “sức mạnh mềm” là “khả năng tạo ra sức mạnh bằng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, động viên, khuyến khích, nhằm hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút đối phương (có thể là các nước, giai cấp, dân tộc, cộng đồng) khiến họ tin tưởng, tự nguyện thay đổi hành vi, chính sách phù hợp với điều mình muốn”[3].

Từ các cách tiếp cận trên, có thể hiểu sức mạnh mềm của quốc gia là tổng hợp các giá trị có sức thu hút, lôi cuốn, thuyết phục đối phương, nhằm đạt mục tiêu xác định.

Trong lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam, ông, cha ta chưa đưa ra quan niệm về “sức mạnh mềm”, nhưng các khía cạnh và nội dung của nó đã được bàn đến khi đề cập đến ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh của lòng dân, của tinh thần đoàn kết, gắn bó trong chống thiên tai, địch hoạ. Điều đó, được khái quát, đúc kết trong các câu nói, phương ngôn hành động như: “chúng chí thành thành”, “cử quốc nghênh địch”, “đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”,… Ở thế kỉ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã nhìn thấy giá trị của “sức mạnh mềm” trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều này, được Người khẳng định trong các câu nói đã trở thành triết lý phát triển ở Việt Nam: “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”, “dân là chủ, Chính phủ là đày tớ”, “Về chính sách ngoại giao, Chính phủ và nhân dân ta chủ trương hợp tác thân thiện với các nước trên nền tảng năm nguyên tắc chung sống hòa bình”[4],… Chính Người cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng do Người sáng lập) đã hiện thực hoá các giá trị văn hoá (sức mạnh nội sinh của dân tộc); giá trị xây dựng Chính phủ của dân, do dân, vì dân; chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trên nền tảng năm nguyên tắc chung sống hòa bình. Qua đó, Đảng và Nhà nước ta đã động viên, khích lệ, thu hút, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân vào khối đại đoàn kết dân tộc, và kết hợp được sức mạnh quốc tế nhờ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, các phong trào đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân loại; sự ủng hộ từ phong trào phản chiến ngay trên nước Pháp, Mỹ, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước, góp phần vào thành công của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 35 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh mềm để phát triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các giá trị mang tính nguồn cội của sức mạnh mềm đã được coi trọng và phát huy, góp phần làm thay đổi diện mạo nền kinh tế, tạo sức cuốn hút khẳng định uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.  

Hiện nay, trước một thế giới đầy biến động và phức tạp, cạnh tranh địa - chính trị, cạnh tranh kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục, giá trị hình ảnh để tạo sức hút, lôi cuốn là xu thế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra ngày càng cao: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người[5]. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn đang ra sức chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thực hiện chống phá trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm làm cho nước ta mất ổn định chính trị, lệ thuộc kinh tế, văn hóa, dần dần từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, Đảng ta đã xây dựng mục tiêu thể hiện chiến lược đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Do đó, việc việc phát huy sức mạnh mềm là một nội dung quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc. Để làm tốt điều này, cần nghiên cứu và thực hiện tốt các nội dung giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các chủ thể, lực lượng về sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc.

Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi vì, nhận thức đúng thì hành động đúng, ngược lại nếu nhận thức sai hoặc chưa đầy đủ về sức mạnh mềm, thì tất yếu việc phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trong bảo vệ Tổ quốc không đạt hiệu quả đề ra. Theo đó, để nâng cao nhận thức của các chủ thể về sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vai trò và tính tất yếu phải phát huy sức mạnh mềm của đất nước trong bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, các chủ thể, lực lượng cần hiểu rõ vai trò của sức mạnh mềm trong bối cảnh hiện nay bao gồm: khả năng quy tụ, tập hợp ý chí, sự cố kết cộng đồng tạo nên nguồn sức mạnh nội sinh, nhân lên thành hào khí dân tộc; yếu tố ngày càng quan trọng cấu thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia; tạo lập vị thế, uy tín và ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế; nâng cao giá trị thương hiệu Việt Nam và sức cạnh tranh của nước ta trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể, lực lượng cần thấu suốt về tính tất yếu khách quan của phát huy sức mạnh mềm để bảo vệ Tổ quốc. Bởi vì, sức mạnh mềm hiện nay đang dần chiếm vị trí chủ đạo trong quan hệ quốc tế, và được hầu hết các quốc gia, dân tộc quan tâm nghiên cứu, nhất là các cường quốc, các quốc gia phát triển đều áp dụng nó trong thực tiễn để tăng sức thu hút, lôi cuốn, thuyết phục, qua đó, gia tăng vị thế, tầm ảnh hưởng trong cộng đồng quốc tế.


 
Thứ hai, tiếp tục nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; hoàn thiện thể chế dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Đây là nội dung giải pháp cơ bản để phát huy sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi vì, thông qua hiệu quả của từng thành tố trong giải pháp này, sẽ có tác dụng mạnh mẽ trong thu hút, thuyết phục và huy động trí tuệ, sức sáng tạo, sức mạnh, vai trò làm chủ của Nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả[6]. Đối với nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, cần quán triệt và cụ thể hoá quan điểm định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 của Đại hội XIII: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước[7]. Mặt khác, để hoàn thiện thể chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chúng ta cần quyết tâm và cụ thể hoá trong thực tiễn quan điểm: Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội[8].

Thứ ba, phát huy vai trò và sức mạnh văn hóa - sức mạnh nội sinh của dân tộc.

Đây là nội dung giải pháp cơ bản, trực tiếp quyết định đến phát huy sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi vì, Việt Nam là quốc gia ngàn năm văn hiến, có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, và băn hoá Việt Nam trải qua mấy ngàn năm phát triển với sự giao lưu và tiếp biến với các nền văn hoá trong khu vực và quốc tế, đã khẳng định sức mạnh với các giá trị truyền thống tốt đẹp và được lưu giữ, củng cố, phát triển không ngừng, đó là nguồn cội sức mạnh vô địch của một dân tộc đất không rộng, người không đông và thường xuyên bị thiên tai, địch hoạ đe đoạ nhưng vẫn đứng vững trong dòng chảy của lịch sử. Do vậy, phát huy vai trò và sức mạnh văn hoá Việt Nam - sức mạnh nội sinh của dân tộc cần quán triệt và thực hiện quan điểm của Đại hội XIII về định hướng phát triển văn hoá giai đoạn 2021-2030: “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc[9]. Theo đó, phát huy vai trò và sức mạnh nội sinh của văn hoá cần bắt đầu từ chính sách khuyến khích, thúc đẩy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và chắt lọc các giá trị tinh hoa của văn hoá thế giới, làm cho văn hoá Việt Nam thật sự tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong tình hình mới, nhiều giá trị mang tính nguồn cội về sức mạnh văn hoá của dân tộc cần được thúc đẩy, nhân lên để tạo thành phong trào, hành động tự giác, niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam ở bất cứ đâu, làm nghề gì; đó là ý chí, nghị lực, sức sáng tạo, lòng dũng cảm, thông minh, hiếu học, lạc quan, yêu đời, yêu Tổ quốc, yêu thương đồng bào, nhân loại khổ đau; là cách sống thân thiện, gần gũi, mến khách và luôn sẵn lòng chia sẻ, ủng hộ giúp đỡ trong lúc khó khăn, hoạn nạn; là khát vọng sống trong độc lập, tự do, hoà bình, thịnh vượng. Đồng thời, các giá trị văn hoá Việt Nam ở trên, cũng như văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, văn hoá ứng xử, văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ, cần được giữ gìn, bảo lưu và được tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng lên trong đời sống cộng đồng người Việt khắp Năm châu, trong các diễn đàn, hội nghị, hội thảo, toạ đàm khoa học, chương trình nghị sự, triển lãm quốc tế, làm cho văn hoá Việt Nam ngày càng lan toả, thu hút, lôi cuốn sự quan tâm, cảm nhận, trân trọng, ủng hộ của nhân dân các nước trên thế giới. Từ đó, gia tăng sức mạnh tổng hợp của đất nước trong nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Thứ tư, tiếp tục đổi mới hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là nội dung giải pháp cơ bản, quan trọng, góp phần phát huy sức mạnh mềm của đất nước thông qua chính sách ngoại giao. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, thì việc tiếp tục đổi mới hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế là yếu tố trực tiếp góp phần phát huy sức mạnhmềm của đất nước trong bảo vệ Tổ quốc. Do đó, chính sách ngoại giao hiện nay cần quán triệt và thực hiện hiệu quả định hướng phát triển hoạt động ngoại giao giai đoạn 2021-2030 là: thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam[10]. Theo đó, chính sách ngoại giao của Việt Nam cần tiếp tục phát huy các thành quả, thế mạnh của ngành ngoại giao trong hơn 35 năm đổi mới đất nước; tiếp tục đường lối đối ngoại nhất quán của Việt Nam vì hoà bình, hợp tác, phát triển và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; linh hoạt, sáng tạo trong công tác ngoại giao theo quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cho hoạt động ngoại giao của Việt Nam ngày càng phát triển trên nhiều cấp độ, loại hình cả ngoại giao của Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân, ngoại giao doanh nghiệp, ngoại giao văn hoá, giáo dục và đào tạo, ngoại giao khoa học, công nghệ, ngoại giao quốc phòng, ngoại giao y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường… Tiếp tục tập trung nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam thông qua các hoạt động hợp tác song phương, đa phương, hợp tác với các tổ chức phi chính phủ theo khuôn khổ pháp luật quốc tế trên nhiều lĩnh vực, cấp độ, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với thực tiễn trên nguyên tắc Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, và làm cho Việt Nam ngày càng tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu; gia tăng sức thuyết phục của các sản phẩm, thương hiệu người Việt trong đời sống quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, xây dựng các cơ chế đa phương trong ứng xử, giải quyết tranh chấp về chủ quyền biển, đảo theo nguyên tắc kiên trì, kiên quyết làm thất bại các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.

Tóm lại, sức mạnh mềm là một xu thế phổ biến trong đời sống quốc tế hiện nay. Trong lịch sử, cha ông ta đã phát huy nhiều giá trị thuộc về sức mạnh mềm để dựng nước và giữ nước. Trong bối cảnh của tình hình thế giới và trong nước hiện nay, nhất là yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng cao, đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc, mà phát huy sức mạnh mềm là vấn đề tất yếu khách quan. Vì vậy, các chủ thể, lực lượng cần nghiên cứu và thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nội dung giải pháp nêu trên, bảo đảm cho việc phát huy các yếu tố mang tính nguồn cội của sức mạnh mềm, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I.

2. Nguyễn Hoa, “Sức mạnh mềm trong một thế giới thay đổi”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 09/01/2020 https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/815776/suc-manh-mem-trong-mot-the-gioi-dang-thay-doi.aspx

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 11.

4. Thành Nhật, “Phát huy sức mạnh mềm trong thời kỳ mới”, ngày 03/6/2021, http://thinhvuongvietnam.com/Content/phat-huy-suc-manh-mem-trong-thoi-ky-moi-335622.

5. Joseph S. Nye Jr., Tương lai của quyền lực (Tâm Hiền dịch), Nxb Lao động - Công ty CP sách Bách Việt, Hà Nội, 2018.

 

 



* Chủ nhiệm Chính trị, Học viện Quốc phòng,  ĐT: 0912215969..

[1] Joseph S. Nye Jr., Tương lai của quyền lực (Tâm Hiền dịch), Nxb Lao động - Công ty CP sách Bách Việt, Hà Nội, 2018, tr.54.

[2] Joseph S. Nye Jr., Tương lai của quyền lực (Tâm Hiền dịch), Sđd, tr.153.

[3] Thành Nhật, “Phát huy sức mạnh mềm trong thời kỳ mới”, ngày 03/6/2021, http://thinhvuongvietnam.com/Content/phat-huy-suc-manh-mem-trong-thoi-ky-moi-335622

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 11, tr.316.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.156.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.118-119.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.118.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.118.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.116.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.117-118.

Xây dựng thế trận lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

 Theo Từ điển bách khoa quân sự, thuật ngữ “quốc phòng toàn dân” (QPTD) được quan niệm là “Nền quốc phòng mang tính chất “Vì dân, do dân, của dân” phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ. Nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[1]. Theo đó, xây dựng nền QPTD là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, là một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, dân tộc ta đã sớm biết xây dựng, củng cố nền quốc phòng dựa trên sức mạnh toàn dân. Để xây dựng nền QPTD vững mạnh, đòi hỏi phải xây dựng 3 nội dung là: lực lượng, tiềm lực và thế trận. Trong nội dung xây dựng thế trận thì xây dựng “thế trận lòng dân” là một nội dung cơ bản, mang tính quyết định. Bởi “thế trận lòng dân” chính là nhân tố chính trị, tinh thần trong sức mạnh của nền QPTD. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy[2]. Đề cập về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[3]. Sách Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và cả hệ thống chính trị[4].

Thuật ngữ “lòng dân” phản ánh trạng thái chính trị - tinh thần của người dân trong xã hội. “Lòng dân” được biểu hiện ở tình cảm, lòng yêu nước, ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết, niềm tin, sự đồng thuận của người dân với chế độ chính trị của đất nước. “Lòng dân” là yếu tố tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. Theo đó, “thế trận lòng dân” trong nền QPTD hiện nay mà chúng ta đang xây dựng là “lòng dân” được khơi dậy, quy tụ và phát huy, tạo nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động hình thành nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Do đó, “thế trận lòng dân” là nền tảng vững chắc để xây dựng nền QPTD vững mạnh; là mạch nguồn để động viên mọi nguồn lực của đất nước cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Có nhiều yếu tố cấu thành nên “thế trận lòng dân”, trong đó, những yếu tố chủ yếu đó là: lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng lòng, ý thức tự lực, tự cường của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhận thức của Nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm của Nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong xây dựng nền QPTD. “Thế trận lòng dân” được biểu hiện tập trung ở toàn dân đoàn kết thành một khối vững chắc quanh Đảng và Nhà nước, cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Mục đích xây dựng “thế trận lòng dân” là nhằm tạo cơ sở, nền tảng chính trị - tinh thần để huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, giữ vững niềm tin, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu truyền thống của dân tộc ta về sức mạnh toàn dân, Đảng ta luôn thực hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, coi Nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, của nền QPTD nói riêng. Mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính mục tiêu đó, đã đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã và đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử: kinh tế tăng trưởng khá, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu nêu trên có được là nhờ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn, hợp lòng dân, phát huy sức mạnh của toàn dân. Đảng ta đã chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế,tác động mạnh mẽ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0), bên cạnh những thuận lợi cũng đặt ra không ít thách thức đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông đang diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi ta phải thực hiện tốt phương châm “kiên quyết, kiên trì” trong bảo vệ chủ quyền biển đảo. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đang diễn biến hết sức phức tạp. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 vẫn đang tiềm ẩn nguy cơ khó lường, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn tới bất ổn xã hội, trở thành thách thức lớn đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn… Đáng chú ý là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Cùng với đó, tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Những thách thức trên đang đặt ra cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc những yêu cầu mới. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vấn đề mang tính quyết định là phải xây dựng và phát huy được “thế trận lòng dân” vững chắc. Nếu không xây dựng được “thế trận lòng dân”, để “lòng dân” ly tán, nhân dân mất liềm tin vào Đảng, vào Nhà nước, thì đó là nguy cơ mất nước, mất chế độ. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại”[5]. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi phải tiến hành nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. 

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một giá trị bền vững, nhân tố quan trọng hàng đầu, tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa, tinh thần và trở thành truyền thống, bản lĩnh Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử; cơ sở vững chắc gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; đồng thời, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, được định hướng và thể hiện tập trung ở lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Yêu nước gắn liền với yêu chế độ XHCN là đặc trưng văn hóa - chính trị của Nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Bởi vậy, cần phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước nhằm định hướng, quy tụ sức mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần tăng cường “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy chủ nghĩa yêu nước trong tình hình hiện nay, cần tăng cường giáo dục, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; tinh thần đại đoàn kết toàn dân; nâng cao nhận thức cho mỗi người dân Việt Nam, không để tình cảm và tâm lý dân tộc bị lợi dụng kích động, dẫn tới những hành động cảm tính, quá khích, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài lợi dụng gây ra tình hình bất ổn trong đời sống chính trị - xã hội. Cùng với đó, phải đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa yêu nước cực đoan. Phải làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, chuyển hóa thành bản lĩnh và trí tuệ của con người, dân tộc Việt Nam, góp phần bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và phát triển bền vững. Đồng thời, nâng cao ý thức công dân, làm cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo,... đều có nhận thức đúng, trách nhiệm cao, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với sự nghiệp tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Hai là, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, giữ vững và tăng cường lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định kết quả xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới. Để làm được điều đó, cần tập trung nâng cao nhận thức, niềm tin của Nhân dân về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điểm mấu chốt là Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình. Trong thời gian qua, toàn Đảng đã tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng và đạt được kết quả bước đầu. Thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII và XIII), gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí; khắc phục tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền; đồng thời không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống của mỗi cán bộ, đảng viên, đảm bảo cho họ thực sự là “công bộc” của dân, “dĩ công vi thượng”, luôn là tấm gương sáng để Nhân dân học tập và noi theo. Cùng với đó, phải phát huy tinh thần làm chủ của Nhân dân và các tổ chức quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở và giám sát hoạt động của chính quyền các cấp. Tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương cần thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích chính đáng của Nhân dân bằng những chính sách thiết thực, hiệu quả; đồng thời, luôn gần dân, gắn bó với dân, nắm tâm tư, nguyện vọng của người dân để kịp thời có chủ trương, giải pháp phù hợp. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[6] mà Đại hội XIII đã vạch ra. Đó là hành động thiết thực, hiệu quả nhất để phản bác mọi quan điểm sai trái, thù địch, hòng kích động, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân.

Ba là, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, tạo sự đồng thuận xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. 

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm nhất quán, đường lối chiến lược xuyên suốt của Đảng ta. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” và “giữ nước từ khi nước còn chưa nguy”. Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường đoàn kết quốc tế theo tinh thần thêm bạn, bớt thù, giữ cho “trong ấm, ngoài êm” sẽ tạo sức mạnh, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế trong tiến trình hội nhập, phát triển. Do đó, trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” phải thường xuyên coi trọng nội dung này.

Để làm được điều đó, cần giáo dục, nâng cao nhận thức cho Nhân dân quan điểm của Đảng về đoàn kết dân tộc; hiểu rõ mục tiêu, tầm quan trọng của quan điểm đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, làm cho Nhân dân xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng vào mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đoàn kết dân tộc phải dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; giải quyết tốt các mối quan hệ quốc tế theo tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động làm ly tán lòng dân, phá hoại “thế trận lòng dân” của các thế lực thù địch. 

Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân”, cần phải thấu suốt phương châm chỉ đạo của Đảng “gắn chặt xây với chống”. Cùng với việc chăm lo đảm bảo quyền lợi cho Nhân dân, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, phải tuyên truyền, giáo dục cho Nhân dân nhận thức rõ tình hình, đề cao cảnh giác cách mạng và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực ngay từ cơ sở. Trọng tâm là đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, qua đó giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng ở từng địa phương, cơ sở.

Năm là, phát huy vai trò của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”.

Quân đội Nhân dân Việt Nam với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng dân”. Để tích cực góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới; chăm lo xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng dân”; thực hiện tốt công tác dân vận trong toàn quân, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nhằm phá vỡ “thế trận lòng dân”, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tình hình đại dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ cần giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, xác định rõ nhiệm vụ chống dịch là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, luôn nêu cao tinh thần “chống dịch như chống giặc”, không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp dân, cùng Nhân dân chiến thắng đại dịch. Có như vậy, Quân đội ta mới thực sự là đội quân của dân, do dân và vì dân; tích cực góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Tóm lại, “thế trận lòng dân” có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là loại hình thế trận đặc biệt, là mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng mới, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề, đòi hỏi các cấp, các ngành mà trước hết là cấp ủy đảng các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát huy vai trò của mọi lực lượng, mọi tổ chức chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, làm nền tảng tinh thần xây dựng nền QPTD vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I.

4. Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.

5. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tập 41.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5

7. Quốc hội, Luật số 22/2018-QH14 ngày 08 tháng 6 năm 2019 Luật Quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018.

8. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

 



[1] Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.848.

[2] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tập 41, tr.147.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.179.

[4] Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.49.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.157.

 

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.173.