Thứ Năm, 11 tháng 4, 2019

Thế trận lòng dân Việt Nam


Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hầu hết các triều đại đều quan tâm yếu tố lòng dân, xây dựng thế trận lòng dân; coi yếu tố lòng dân là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng, cơ sở nền tảng để thúc đẩy, phát huy các thành tố khác, có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất to lớn trong xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng có triều đại không quan tâm đúng mức việc xây dựng thế trận lòng dân nên thế nước suy yếu, đất nước lâm nguy.

Ngay trong bình minh của lịch sử dựng, giữ nước, nước Văn Lang của các Vua Hùng đã phải đối phó với các âm mưu, ý đồ và tham vọng xâm lấn, bành trướng của các thế lực bá quyền phương Bắc. Các Vua Hùng đã tập hợp muôn họ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc. Trước nạn ngoại xâm, được sự đồng lòng, đồng sức của nhân dân, sức dân đã lớn lên như thần Phù Đổng, đánh thắng kẻ thù. Trong cộng đồng người Việt đã sớm hình thành ý thức dân tộc, ý thức tự lập, tự cường, ý thức giữ nước được nhà nước khơi dậy, quy tụ vào công cuộc xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành, phát triển thế trận lòng dân ở thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X, nước ta rơi vào ách thống trị, đô hộ tàn khốc của các vương triều phong kiến phương Bắc, song nhân dân ta vẫn nung nấu tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. "Tinh thần và ý chí này được những người tiến bộ, tiêu biểu trong nhân dân khơi dậy, quy tụ, phát huy trong các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ, giành lại quyền độc lập dân tộc"[1]. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo chống lại sự thống trị của Nhà Hán (năm 40-43); tiếp theo, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống chính quyền đô hộ Nhà Hán đã nổ ra trong suốt hai thế kỷ đầu Công nguyên. Sang thế kỷ thứ III, ngay trong thời kỳ bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã củng cố được ách thống trị và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa, vẫn bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Bà Triệu lãnh đạo chống lại sự đô hộ của Nhà Ngô (năm 248). Cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (năm 722); khởi nghĩa của Phùng Hưng, Phùng Hải (năm 766); binh biến của Dương Thanh (năm 819); khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ đầu thế kỷ X; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ (năm 931). Đặc biệt, vào năm 938, Ngô Quyền, vị tướng giỏi với tài thao lược và huy động sức mạnh lòng dân, được quân của các tướng, hào kiệt địa phương cùng đông đảo nhân dân trong vùng cung cấp tình hình sông nước, địa hình, địa vật,... nên đã đánh thắng quân Nam Hán xâm lược trên sông Bạch Đằng, giành lại quyền làm chủ đất nước, mở ra thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, kết thúc hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc trên đất nước ta.
Trong thời kỳ văn minh Đại Việt, mặc dù có những lúc thăng trầm, nhưng nhìn chung các vương triều phong kiến đã ý thức khá đầy đủ vị trí, vai trò và phát huy được sức mạnh lòng dân trong giữ nước, thế trận lòngdân trong thời kỳ này thể hiện tập trung trước hết ở tinh thần đoàn kết, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân trong xây dựng nhà nước phong kiến thống nhất, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đặc biệt là các cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn (năm 981); kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ hai (năm 1075-1077) của Nhà Lý; 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của Nhà Trần ở thế kỷ XIII; kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV; Phong trào Tây Sơn chống quân Thanh ở thế kỷ XVIII; các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược khắp từ Bắc chí Nam ở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Tinh thần yêu nước, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của toàn dân đã được huy động cho các cuộc kháng chiến thắng lợi, lập thành thế trận lòng dân vững chắc, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn cho các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Những lúc mà thế trận lòng dân được xây dựng, phát huy tốt thì lúc đó các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi và xây dựng đất nước phát triển. Tiêu biểu ở các giai đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thời kỳ hưng thịnh của Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn. Trong các thời kỳ này, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân được các triều đại coi trọng, phát huy, quy tụ. Từ đó, tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để ngăn ngừa, đẩy lùi nhiều cuộc chiến tranh, đánh thắng nhiều kẻ thù lớn, như: Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh,... bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Ngược lại, lúc nào việc xây dựng thế trận lòng dân không tốt thì lúc đó đất nước lâm nguy, tiêu biểu như ở thời Nhà Hồ (đầu thế kỷ XV) cai trị đất nước bằng chính sách quốc trị không hợp lòng dân, xây dựng phát triển nền nghệ thuật quân sự không dựa vào sức mạnh của toàn dân, không xây dựng được ý chí chiến đấu trong binh sỹ,.. do đó đã để đất nước rơi vào tay giặc Minh. Triều đại chúa Trịnh ở phía Bắc, chúa Nguyễn ở phía Nam (thế kỷ XV-XVIII) luôn tranh giành quyền lực giữa các họ trong triều bằng nội chiến, khiến dân chúng lầm than oán giận, không tạo được sức mạnh của thế trận lòng dân để phát triển đất nước. Triều đình Nhà Nguyễn thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX, đã cai trị đất nước không dựa vào dân, đối lập quyền lợi của dòng họ với quyền lợi tối cao của dân tộc, kìm hãm phong trào chống Pháp của nhân dân, không tin vào sức mạnh của dân tộc, khiếp nhược trước sức mạnh của kẻ thù, do đó đất nước đã rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước lên vũ đài chính trị, chính thức đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, chống đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng thì tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ và có bước chuyển biến nhảy vọt theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Các tầng lớp nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, tự giác thực hiện đường lối của Đảng trong mọi việc làm, kể cả lúc thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn của cách mạng.
Ở cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khẩu hiệu giành độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới, nhân dân cả nước đồng lòng, nhất loạt đứng lên dưới ngọn cờ của Đảng tranh đấu giành độc lập, tạo ra thế trận lòng dân vững chắc để thực hiện tổng khởi nghĩa trang toàn dân. Sức mạnh của toàn dân được phát huy cao độ, do vậy, chỉ trong thời gian ngắn, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông từ Trung ương cho đến các địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân  Pháp, lực lượng của ta liên tục phát triển từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từng bước tạo nên thế áp đảo quân địch, kết thúc chiến tranh bằng thắng lợi rực rỡ của Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Mặc dù, sau kháng chiến chống thực dân Pháp, có những sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nhanh chóng sửa sai nên đã tiếp tục quy tụ được lòng dân, cả nước một lòng, toàn dân đoàn kết xung quanh Đảng để tiến hành kháng chiến chống Mỹ và kiến quốc.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta.
“Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến vai trò và giá trị to lớn của thế trận lòng dân đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng. Thế trận lòng dân trong giai đoạn này thể hiện trước hết ở sự đồng thuận của toàn dân với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”[2].
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, biên giới nước ta ở phía Tây Nam và phía Bắc bị các thế lực thù địch phát động chiến tranh xâm lấn. Để bảo vệ biên cương Tổ quốc, Đảng ta đã kêu gọi toàn dân, toàn quân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. "Thắng lợi của quân, dân ta ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, một lần nữa chứng minh thế trận lòng dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, tiếp nối xứng đáng thế trận lòng dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược trước đây"[3].
Trước năm 1986, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và tiền đồ của chủ nghĩa xã hội giảm sút, thậm chí còn xuất hiện sự hoài nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, Đảng ta đã kiên trì thực hiện các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội; nghiêm khắc sửa chữa những khuyết điểm, từng bước đổi mới đất nước. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thổi luồng gió mới vào phong trào cách mạng Việt Nam, làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn, kích thích sản xuất phát triển, làm cho tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống nhân dân ngày một cải thiện rõ rệt. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp dân cư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố thế trận lòng dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng chiến tranh toàn dân, thực hiện toàn dân giữ nước đã được phát huy đến đỉnh cao. Đảng ta đã nhất quán quan điểm sự nghiệp giữ nước là của toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Trong chiến tranh giữ nước có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tạo nên thế trận thiên la địa võng đánh địch ở khắp nơi, cả rừng núi, đồng bằng và đô thị, với mọi thứ vũ khí từ hiện đại đến thô sơ, từ tên lửa đến tên tre, lưỡi lê, lưỡi mác...”[4].
Phát huy thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, các kỳ đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII của Đảng tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa dân tộc ta vững bước tiến vào thế kỷ XXI dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quán triệt và chỉ đạo toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị đất nước, tăng cường quốc phòng, an ninh để tạo ra môi trưởng hòa bình ổn định để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại gắn liền với tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, toàn dân đã đoàn kết xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thế trận lòng dân trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam trở thành thế trận toàn dân xây dựng và bảo vệ đất nước, bao hàm các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao... Công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam không chỉ thuần túy dựa vào lực lượng vũ trang, quân đội (mặc dù lực lượng vũ trang, quân đội luôn được coi là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giữ nước), mà còn dựa vào lực lượng nhân dân cả nước, dựa vào sự đồng tâm nhất trí của cả dân tộc, dựa vào thế và lực toàn diện, cả vật chất, tinh thần của đất nước. Thế trận toàn dân giữ nước đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù, dù chúng có quân đông, vũ khí trang bị hiện đại đến đâu. "Trong điều kiện một nước mà lực lượng quân sự không nhiều, tiềm lực vật chất so với kẻ thù không lớn, thường phải "lấy yếu chống mạnh", “lấy ít địch nhiều”, thì không còn cách nào khác phải phát huy cao nhất sức mạnh chính trị - tinh thần, dựa chắc vào đó mà xây dựng thế trận toàn dân giữ nước, có như vậy mới tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn hẳn kẻ thù để giữ nước thành công"[5]. Xây dựng thế trận lòng dân luôn gắn với mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, cùng với việc thường xuyên giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, nhiệm vụ cách mạng,... đi đôi với quan tâm giải quyết tốt các lợi ích, gắn phát triển kinh tế với văn hóa - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân phải có kế thừa, phát triển; có nội dung, phương thức phù hợp với từng thời kỳ, nhất là trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cần chú ý phát huy những yếu tố thời đại để có nội dung, phương thức tiến hành phù hợp, hiệu quả nhất, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục trên cơ sở phát huy trách nhiệm của tất cả các cấp, ngành, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, tạo niềm tin, sự ủng hộ rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân.

Bài viết bởi: Tăng âm truyền thanh, thiết bị truyền thanh
          



[1] Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Thế trận lòng dân trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nxb QĐND, H.2007, Tr.41
[2],2 Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Thế trận lòng dân trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nxb QĐND, H.2007, Tr.92, 105

[4] Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Thế trận lòng dân trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nxb QĐND, H.2007, Tr.30
[5] Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Thế trận lòng dân trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nxb QĐND, H.2007, Tr.15

2 nhận xét:

  1. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy nếu không có sự ủng hộ của nhân dân thì chúng ta không thể đánh thắng được tất cả giặc ngoại xâm và không thể xây dựng được nước Việt Nam như ngày hôm nay; do đó phải xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh

    Trả lờiXóa
  2. "Thế trận lòng dân" là một khái niệm quan trọng trong việc xây dựng và duy trì sự đoàn kết, niềm tin và sự ủng hộ của người dân đối với chính quyền và hệ thống chính trị của một quốc gia. Dưới đây là một số yếu tố và giải pháp quan trọng trong việc xây dựng thế trận lòng dân:

    1. Minh bạch và công khai: Chính quyền cần công khai thông tin về các chính sách, kế hoạch và kết quả thực hiện để người dân có thể theo dõi và giám sát.

    2. Giáo dục và tuyên truyền: Nâng cao nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ công dân, cũng như về các chính sách và định hướng phát triển của đất nước.

    3. Công bằng xã hội: Tạo ra một môi trường sống và làm việc công bằng, không phân biệt đối xử, giúp mọi người dân có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự phát triển chung của quốc gia.

    4. Phát triển kinh tế bền vững: Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân thông qua các chính sách kinh tế hợp lý và bền vững.

    5. Tăng cường sự tham gia của người dân: Khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động cộng đồng, các tổ chức xã hội và quá trình ra quyết định của chính quyền.

    6. Giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội: Chính quyền cần lắng nghe và giải quyết nhanh chóng các vấn đề xã hội, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người dân.

    7. Đoàn kết và gắn bó cộng đồng: Xây dựng tinh thần đoàn kết và gắn bó trong cộng đồng thông qua các hoạt động xã hội, văn hóa và thể thao.

    Thế trận lòng dân không chỉ là nền tảng để xây dựng một xã hội ổn định và phát triển, mà còn là yếu tố quyết định để đảm bảo sự thành công và bền vững của quốc gia. Hành trình xây dựng và duy trì thế trận lòng dân đòi hỏi sự đồng lòng, kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng nghỉ từ cả chính quyền và người dân.

    Trả lờiXóa