THÀNH TỰU XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH MỀM CỦA VIỆT NAM
Có thể thấy, sự chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Hai tiếng “Viet Nam” từ chỗ từng gắn với “Vietnam war” (Chiến tranh ở Việt Nam) đã chuyển sang “Vietnam Renewal” (Công cuộc đổi mới ở Việt Nam) hay “Vietnam Reforms” (Công cuộc cải cách của Việt Nam). Thậm chí, “đổi mới” đã đi vào kho từ vựng quốc tế. Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong mức trên của bảng xếp hạng thế giới, xếp 67/141 nền kinh tế. Cuốn sách “Cường quốc trong tương lai” (2019) của tác giả Hamada Kazuyuki (Nhật Bản) dự báo: năm 2026: Việt Nam nhảy vọt thành cường quốc kinh tế số; năm 2030: GDP của Việt Nam bứt phá mới: 10.000 USD; năm 2048: Việt Nam lọt vào top 20 thế giới về quy mô kinh tế. Thế giới cũng đánh giá Việt Nam đang dần trở thành “một ngôi sao sáng”. Theo báo cáo Chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, Việt Nam xếp thứ 47/105 quốc gia được xếp hạng, tăng 3 bậc so với năm 2020. Báo cáo Nation Brands 2020 của Brand Finance, Việt Nam có giá trị thương hiệu quốc gia tăng nhanh nhất thế giới (29% so với năm 2019). Thứ hạng của Việt Nam cũng cải thiện từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu quốc gia có giá trị nhất của Brand Finance.
Những thành công vượt bậc về kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và đối ngoại... sau 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam chính là kết quả của quá trình phát triển, phát huy sức mạnh mềm Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng (2021) đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH... đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó đã mang lại những tiền đề quan trọng để chúng ta xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, tiềm lực khoa học – công nghệ quân sự; đưa Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại (sức mạnh quân sự đứng thứ 24/140 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2021 theo xếp hạng của Global Firepower), đáp ứng yêu cầu “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy” như Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã xác định.
Bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có nhiều sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự phát huy được tối đa, chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh để phát triển bền vững đất nước. Việc phát huy hiệu quả các thành tố địa chiến lược chính trị, địa kinh tế, lợi thế địa lý, lịch sử truyền thống, văn hóa, đối nội, đối ngoại, những vấn đề thời đại để nhân lên sức mạnh tổng hợp, tạo ra thế và lực cho đất nước còn có những hạn chế nhất định. Khai thác các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Lực lượng lao động trẻ thông minh và chăm chỉ nhưng do hệ thống giáo dục của Việt Nam còn nhiều yếu kém, bất cập so với thế giới nên hậu quả là ưu thế nguồn nhân lực hiện tại đang gặp nhiều thử thách, không còn là lợi thế cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập; trong khi đó, chính sách trọng dụng nhân tài còn nhiều hạn chế. Chúng ta có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng chúng ta lại chưa có một chiến lược lâu dài để quảng bá hình ảnh một nước Việt Nam có bề dày văn hóa ra thế giới. Những tinh túy của dân tộc chưa truyền được vào trong các sản phẩm mang thương hiệu quốc gia; văn hóa ẩm thực vừa độc đáo vừa hấp dẫn nhưng vẫn chưa được thế giới biết nhiều đến.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH MỀM THỜI KỲ MỚI
Từ những vấn đề trên, để phát triển sức mạnh mềm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng định hướng chiến lược về phát triển sức mạnh mềm, xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam một cách bài bản, dài hạn, đặc biệt trong kỷ nguyên số.
Chúng ta cần có tầm nhìn chiến lược từ sớm, đánh giá đúng vai trò của sức mạnh mềm đối với sức mạnh tổng hợp quốc gia và cần tạo được sự nhất quán, thống nhất cao giữa các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương; thúc đẩy và triển khai chiến lược xây dựng sức mạnh mềm trong dài hạn, tạo nên sự phối hợp, liên kết chặt chẽ, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực. Quan tâm và đầu tư hơn nữa trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam. Tập trung khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh, tận dụng lợi thế để phát triển thị trường nội địa và thúc đẩy xuất khẩu thông qua các biện pháp nâng cao giá trị thương hiệu, kết hợp xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp với Thương hiệu quốc gia Việt Nam, tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường quốc tế và tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Mỗi thương hiệu sản phẩm, dịch vụ được thế giới ghi nhận sẽ là hình ảnh đẹp về thương hiệu của đất nước, truyền thống, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam. Không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, áp dụng các cải tiến kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Đẩy mạnh chuyển đổi số, chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
Thứ hai, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đây là điều kiện, tiền đề quan trọng để chúng ta tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau 36 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội, ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch Covid-19. Chất lượng tăng trưởng đã dần được cải thiện, thể hiện ở việc tăng trưởng kinh tế giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, năng suất lao động của chúng ta có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trong 10 năm 2011 - 2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%). Với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần tiếp tục duy trì tăng trưởng cao và liên tục trong những thập niên tới. Trong bối cảnh tăng trưởng theo phương thức truyền thống, dựa chủ yếu trên mở rộng quy mô lao động giá rẻ hay gia tăng khai thác tài nguyên thiên nhiên đã trở nên hạn hẹp, năng suất lao động chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng địa phương và của khu vực doanh nghiệp. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam cần thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước; chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao; chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải cácbon thấp; cơ cấu lại các ngành nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hoá các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Thứ ba, chủ động quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp, nâng cao vị thế đất nước, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước tiên, cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò, đóng góp của văn hóa trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thực sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc. Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, trong đó ưu tiên các địa bàn trọng điểm: Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại trong thời kỳ mới để hỗ trợ quảng bá văn hóa, các loại hình nghệ thuật đặc sắc của quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài. Chủ động tham gia, thể hiện vai trò tích cực tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế về văn hóa, cử người làm việc và ứng cử tại các cơ quan chuyên môn của các tổ chức này; tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch quốc tế quy mô, uy tín.
Thứ tư, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, tạo thế đan cài lợi ích, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội từ sớm, từ xa, từ bên ngoài.
Sau 36 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại và mở rộng hội nhập quốc tế, chúng ta đã giành được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”. cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc; chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; đã phá được thế bị bao vây, cấm vận, bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; chúng ta quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn. Cùng với việc tăng cường ngoại giao Nhà nước, quan hệ đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương.
Thực hiện giải pháp này, trong thời gian tới chúng ta cần phát huy nghệ thuật ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “thêm bạn, bớt thù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt xử lý các vấn đề quốc tế một cách khôn khéo; đồng thời “quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác, hội nhập quốc tế. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài”. Xác định rõ hội nhập quốc tế là quá trình, vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia. Tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực, quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi. Củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò định hình, “nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải” trong các cơ chế đa phương; nghiên cứu tham gia xây dựng định hình các thể chế, định chế, luật lệ, chuẩn mực về chính trị; kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với song phương. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh nhằm góp phần “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”, “chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”...
Thứ năm, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là đòi hỏi khách quan, thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta, sau 36 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh cần: quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022, của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo...; nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng các yếu tố trong tiềm lực quốc phòng, an ninh: tiềm lực chính trị - tinh thần, nhất là chăm lo xây dựng tiềm lực,
thế trận lòng dân; tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, tiềm lực quân sự. Quan tâm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo. Tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật...
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, là một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nhiều thử thách khốc liệt về thiên tai, địch họa, người Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của việc vận dụng sức mạnh mềm để gia tăng sức mạnh quốc gia, chiến thắng kẻ thù xâm lược. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang chủ động, tích cực tiến hành hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội để tận dụng và phát huy tối đa những lợi thế sẵn có nhằm phát triển đất nước, giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng cùng với những cơ hội là không ít thách thức đặt ra đối với chúng ta. Trong bối cảnh như vậy, việc phát huy sức mạnh mềm của đất nước có thể được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, gia tăng “thương hiệu”, sức mạnh tổng hợp quốc gia, cũng như bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.