PHÁT TRIỂN "QUYỀN LỰC MỀM", "SỨC MẠNH MỀM"
Trong
thế giới đương đại, sức mạnh mềm đang được
đề cập và nhanh chóng nhận được sự quan tâm lớn của giới nghiên cứu học thuật,
các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia. Trên thực tế, đã có nhiều
quốc gia nghiên cứu, vận dụng tốt lý luận này trong thực tiễn phát triển đất
nước và đạt được những thành công nhất định. Việt Nam là quốc gia có địa chính
trị, kinh tế đặc biệt, có bề dày văn hóa
truyền thống hàng nghìn năm, đang chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện, sâu rộng; hơn
lúc nào hết, chúng ta cần phát triển, phát huy tối đa sức mạnh mềm Việt Nam
nhằm gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, hiện thực hóa khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Trong bài này tác giả Việt Hưng - Âm thanh hội trường sẽ chỉ ra Bí quyết để phát triển sức mạnh mềm Việt Nam trong thế giới đương đại

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của các làn sóng khoa học, công
nghệ, nhất là Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư, “sức mạnh mềm” đã trở thành
một nguồn “tài nguyên quyền lực” mới của quốc gia, có tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các quan hệ quốc tế đương đại. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, phát
triển hay đang phát triển đều đang rất quan tâm đến xây dựng, củng cố, khai
thác và phát huy sức mạnh mềm của mình như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược
quốc gia, một phương thức cơ bản để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia mình.
Việt Nam có bề dày văn hóa truyền thống hàng nghìn năm, sức mạnh mềm Việt Nam bắt
nguồn từ sự kế thừa và phát huy những giá trị của lịch sử, truyền thống yêu
nước, ý chí quật cường, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc do những con người
được đánh giá là thông minh và sáng tạo, dũng cảm và bản lĩnh, hiếu học và cần
cù, khoan dung và nhân hậu... sáng tạo ra; đồng thời, là sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, từ những thành công của công cuộc đổi mới, vị trí địa - chính trị
đặc thù, tính chính nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chính sách đối ngoại
khôn khéo, yêu chuộng hòa bình và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng
hòa bình, công lý trên thế giới... Những yếu tố trên đã tạo nên “sức mạnh mềm”
Việt Nam, rất cần được phát triển và phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Hình ảnh về 1 số vũ khí, tăng cường sức mạnh cứng
“Sức
mạnh mềm” là khái niệm mới mà các giới nghiên cứu, các chính trị gia đang rất
quan tâm đề cập. Hiện nay, có những khái niệm, cách hiểu khác nhau về "sức
mạnh mềm", song tựu chung là sự ảnh hưởng, chi phối của quốc gia, dân tộc,
chủ thể này với quốc gia, dân tộc, chủ thể khác không bằng sự áp đặt, cưỡng bức
(sức mạnh cứng) mà thông qua sự thu phục, thuyết phục, chinh phục, hấp dẫn, tự
nguyện, tự giác tuân theo. Một
quốc gia được coi là thành công trong việc xây dựng “sức mạnh mềm” khi dựa trên
sức hấp dẫn của văn hóa, quan điểm chính trị và chính sách ngoại giao đủ sức
lôi cuốn nước khác đi theo mình, không như “sức mạnh cứng” bao gồm: tiềm lực về
kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật và nguồn tài nguyên mà xưa nay là những
sức mạnh hữu hình chi phối các mối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, “sức mạnh
cứng” và “sức mạnh mềm” có khả năng hỗ trợ làm tăng ảnh hưởng cho nhau. “Sức
mạnh cứng” có thể giúp phát huy “sức mạnh mềm”, làm cho “sức mạnh mềm” trở nên
hấp dẫn. Theo J. S. Nye, khả năng kết hợp giữa “sức mạnh mềm” và “sức mạnh
cứng” sẽ tạo ra “sức mạnh thông minh” (Smart power). Như vậy có thể thấy, sức
mạnh mềm là một loại sức mạnh tổng hợp, được cấu thành từ nhiều yếu tố khác
nhau. Sức mạnh mềm không phải là một thực thể tĩnh mà là một quá trình động,
trong đó các nhân tố tạo nên sức mạnh mềm bổ sung, hỗ trợ và tương tác, chuyển
hóa lẫn nhau. Theo thời gian, các nhân tố của sức mạnh mềm có thể thay đổi,
tiếp biến, do vậy, sức mạnh mềm tổng thể của quốc gia cũng có những biến đổi.
Có thể nói, Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển
sức mạnh mềm, nhất là lợi thế về địa chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa xã
hội, nhân tố con người. Thực
tế thời gian qua, sức mạnh mềm Việt Nam đã được phát triển, phát huy có hiệu
quả trong các quan hệ quốc tế
và điều đó có ý nghĩa tích cực trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhờ thế,
Việt Nam đã và đang dần đóng vai trò “nòng cốt, dẫn dắt, hoà giải, sáng kiến,
tích cực, có trách nhiệm” tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng
chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể. Minh
chứng là, chúng ta đã gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998;
WTO năm 2007; CPTPP năm 2018. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với
189/193 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước
lớn, các Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác
chiến lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối
tác toàn diện. Trên bình diện đa phương, Việt Nam có nhiều đóng góp hiệu quả và
đảm nhiệm thành công vai trò chủ chốt tại các tổ chức và diễn đàn, đặc biệt là
Liên hợp quốc, ASEAN. Chúng ta cũng có nhiều đóng góp tích cực trong việc tổ
chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn, nhất là vị trí nước chủ nhà của Hội
nghị cấp cao Pháp ngữ (1997), ASEAN (1998, 2010, 2020), ASEM (2005), APEC (2006,
2007), Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần hai năm 2019... Việt Nam cũng chủ
động đưa ra nhiều ý tưởng, sáng tạo ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế
quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, nhóm các nước G7, G20,...
và trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực, toàn
cầu.
Có thể thấy, sự chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam trong 36 năm
đổi mới vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Hai tiếng “Viet Nam” từ chỗ
từng gắn với “Vietnam war” (Chiến tranh ở Việt Nam) đã chuyển sang “Vietnam
Renewal” (Công cuộc đổi mới ở Việt Nam) hay “Vietnam Reforms” (Công cuộc cải
cách của Việt Nam). Thậm chí, “đổi mới” đã đi vào kho từ vựng quốc tế. Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),
Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong mức trên của bảng xếp hạng thế giới, xếp
67/141 nền kinh tế. Cuốn sách “Cường quốc trong tương lai” (2019) của tác giả
Hamada Kazuyuki (Nhật Bản) dự báo: năm 2026: Việt Nam nhảy vọt thành cường quốc
kinh tế số; năm 2030: GDP của Việt Nam bứt phá mới: 10.000 USD; năm 2048: Việt
Nam lọt vào top 20 thế giới về quy mô kinh tế. Thế giới cũng đánh giá Việt Nam
đang dần trở thành “một ngôi sao sáng”[1]. Theo báo cáo Chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance
Global Soft Power Index Report) năm 2021, Việt Nam xếp thứ 47/105 quốc gia
được xếp hạng, tăng 3 bậc so với năm 2020. Báo cáo Nation Brands 2020 của Brand Finance, Việt Nam có giá trị
thương hiệu quốc gia tăng nhanh nhất thế giới (29% so với năm 2019). Thứ hạng
của Việt Nam cũng cải thiện từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu
quốc gia có giá trị nhất của Brand Finance.

Những thành công vượt bậc về kinh tế, văn hóa, giáo dục -
đào tạo, khoa học - công nghệ, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và đối ngoại...
sau 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam chính là kết quả của quá
trình phát triển, phát huy sức mạnh mềm Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng (2021)
đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH... đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ
rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay”[2].
Điều đó đã mang lại những tiền đề quan trọng để chúng ta xây dựng tiềm lực quốc
phòng, an ninh, tiềm lực khoa học – công nghệ quân sự; đưa Quân đội nhân dân
Việt Nam ngày càng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại (sức mạnh quân sự đứng
thứ 24/140 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2021 theo xếp hạng của Global
Firepower), đáp ứng yêu cầu “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa
nguy” như Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã xác định.
Bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có nhiều sức mạnh
mềm bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự phát huy được tối đa, chưa thực sự trở
thành nguồn lực, động lực nội sinh để phát triển bền vững đất nước. Việc phát
huy hiệu quả các thành tố địa chiến lược chính trị, địa kinh tế, lợi thế địa lý, lịch
sử truyền thống, văn hóa, đối nội, đối ngoại, những vấn đề thời đại để nhân lên
sức mạnh tổng hợp, tạo ra thế và lực cho đất nước còn có những hạn chế nhất
định. Khai thác các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Lực lượng lao động trẻ thông minh và
chăm chỉ nhưng do hệ thống giáo dục của Việt Nam còn nhiều yếu kém, bất cập so
với thế giới nên hậu quả là ưu thế nguồn nhân lực hiện tại đang gặp nhiều thử
thách, không còn là lợi thế cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập; trong khi đó,
chính sách trọng dụng nhân tài còn nhiều hạn chế. Chúng ta có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng chúng
ta lại chưa có một chiến lược lâu dài để quảng bá hình ảnh một nước Việt Nam có
bề dày văn hóa ra thế giới. Những tinh túy của dân tộc chưa truyền được vào
trong các sản phẩm mang thương hiệu quốc gia; văn hóa ẩm thực vừa độc đáo vừa
hấp dẫn nhưng vẫn chưa được thế giới biết nhiều đến...

Từ những vấn đề trên, để phát triển sức mạnh mềm tích cực chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa từ sớm từ xa trong tình hình hiện nay cần chú trọng những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xây dựng định hướng chiến
lược về phát triển sức mạnh mềm, xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam một cách bài bản, dài hạn, đặc biệt
trong kỷ nguyên số.
Chúng ta cần có tầm nhìn chiến lược từ sớm, đánh giá đúng vai trò của
sức mạnh mềm đối với sức mạnh tổng hợp quốc gia và cần tạo được sự nhất quán,
thống nhất cao giữa các
cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương; thúc đẩy và triển khai chiến lược xây dựng sức mạnh mềm
trong dài hạn, tạo nên sự phối hợp, liên kết chặt chẽ, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực. Quan tâm và đầu tư hơn nữa trong việc xây
dựng “thương hiệu” quốc gia. Tập trung khai thác tốt hơn
tiềm năng, thế mạnh, tận dụng lợi thế để phát triển thị trường nội địa và thúc
đẩy xuất khẩu thông qua các biện pháp nâng cao giá trị thương hiệu, kết hợp xây
dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp với Thương hiệu
quốc gia Việt Nam, tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Tích cực tìm kiếm, mở
rộng thị trường quốc tế và tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Mỗi thương hiệu sản phẩm, dịch vụ được thế giới ghi nhận sẽ là hình ảnh đẹp về thương hiệu của
đất nước, truyền thống, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam. Không ngừng đổi
mới, sáng tạo, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, áp dụng các cải
tiến kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả kinh doanh. Đẩy mạnh chuyển đổi số, chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh
doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế
số, kinh tế tuần hoàn.
Thứ hai, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
Đây là điều kiện, tiền đề quan trọng
để chúng ta tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Sau 36 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong phát triển kinh tế - xã hội, ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch
Covid-19. Chất lượng tăng trưởng đã dần được cải thiện, thể hiện ở việc tăng trưởng kinh tế
giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao
động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng
dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, năng suất
lao động của chúng ta có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần,
từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021.
Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trong 10 năm 2011 - 2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và
giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%)[3]. Với mục tiêu trở thành nước đang phát
triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành
nước nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần tiếp tục duy trì
tăng trưởng cao và liên tục trong những thập niên tới. Trong bối cảnh tăng
trưởng theo phương thức truyền thống, dựa chủ yếu trên mở rộng quy mô lao động
giá rẻ hay gia tăng khai thác tài nguyên thiên
nhiên đã trở nên hạn hẹp, năng suất lao động chính là yếu tố quyết định năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng địa phương và của khu vực doanh nghiệp. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số
29-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về
tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam
cần thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền
kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng
cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy
tốt thị trường trong nước; chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các
ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị
gia tăng cao; chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng
sang các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải cácbon thấp; cơ cấu lại
các ngành nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công
nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng
cao, đẩy nhanh dịch vụ hoá các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Thứ ba, chủ động quảng bá các giá
trị văn hóa Việt Nam ra thế giới, phát huy sức
mạnh mềm văn hóa, góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp,
nâng cao vị thế đất nước, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước
tiên, cần nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã
hội về vị trí, vai trò, đóng góp của
văn hóa trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế. Thực sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa
với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc. Chủ
động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình
thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi
vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh
hoa văn hóa thế giới để làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chú trọng
truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước
ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn
hóa Việt Nam ở nước ngoài, trong đó ưu tiên các địa bàn trọng điểm:
Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Xây dựng Chiến lược phát
triển văn hóa đối ngoại trong thời kỳ mới để hỗ trợ quảng bá văn hóa,
các loại hình nghệ thuật đặc sắc của quốc gia và xuất khẩu
các sản phẩm,
dịch vụ văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài. Chủ động tham
gia, thể hiện vai trò tích cực tại các diễn đàn, tổ chức
quốc tế về văn hóa, cử người làm việc và ứng cử tại các cơ quan
chuyên môn của các tổ chức này; tăng cường sự hiện diện của Việt Nam
tại các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch
quốc tế quy mô, uy tín.
Thứ tư, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, tạo thế đan cài lợi ích, góp phần bảo vệ vững chắc
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội từ sớm, từ xa, từ bên
ngoài.
Sau 36 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại và mở rộng
hội nhập quốc tế, chúng ta đã giành được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử”,
cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc; chúng ta đã giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội; đã phá được thế bị bao vây, cấm vận, bình thường hóa,
thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường
hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển. Quan hệ đối ngoại
được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; chúng ta quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục
từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn.
Cùng với việc tăng cường ngoại giao Nhà nước, quan hệ đối ngoại Đảng và đối
ngoại nhân dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các
diễn đàn đa phương.
Thực
hiện giải pháp này, trong thời gian tới chúng ta cần phát huy nghệ thuật ngoại giao “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, “thêm bạn, bớt thù” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo về sách
lược, linh hoạt xử lý các vấn đề quốc tế một cách khôn khéo; đồng thời “quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc
dân tộc - trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự
chủ, chủ quyền quốc gia. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để
nâng cao hiệu quả hợp tác, hội nhập quốc tế. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là trọng
tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện “đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả
năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của
bên ngoài”.
Xác định rõ hội nhập quốc tế là quá trình, vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định
lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống,
không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào tập hợp lực lượng,
các liên minh của bên này chống bên kia. Tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế mà
Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng
hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng
khu vực, quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc
cùng có lợi. Củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp
tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ
tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò định hình, “nòng cốt,
dẫn dắt và hòa giải” trong các cơ chế đa phương; nghiên cứu tham gia xây dựng định
hình các thể chế, định chế, luật lệ, chuẩn mực về chính trị; kết hợp chặt chẽ
và hiệu quả với song phương. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc
phòng, an ninh nhằm góp phần “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội
trật tự, kỷ cương”, “chủ động ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những
yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động
và cơ hội chính trị”...
Thứ năm, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, quan
tâm xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng
Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy
chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây cũng là đòi hỏi khách quan, thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho quân
đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đối với nước ta, sau 36 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc
tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và
bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị
tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân
đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Do
đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, quan tâm xây dựng Quân đội nhân
dân tinh, gọn, là tăng cường "sức mạnh cứng" nhưng thực chất cũng là
tăng cường tiềm lực "sức mạnh mềm" cho sự nghiệp BVTQ. Tình hình trên
đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây
dựng quân đội tinh, gọn, mạnh cần: quán triệt và thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số
05-NQ/TW, ngày 17/01/2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW,
ngày 02/4/2022, của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội
nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo...; nâng cao hơn
nữa hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng các yếu tố trong
tiềm lực quốc phòng, an ninh: tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh
tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, tiềm lực quân sự. Quan tâm xây dựng Quân
đội vững mạnh về chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội. Thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế,
trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới; quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan
tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng quân đội
tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo. Tập trung xây dựng
và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang
bị kỹ thuật...
Trong suốt hàng ngàn năm
lịch sử, là một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nhiều thử thách khốc
liệt về thiên tai, địch họa, người Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của
việc vận dụng sức mạnh mềm để gia tăng sức mạnh quốc gia, chiến thắng kẻ thù
xâm lược. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang chủ động, tích cực tiến hành hội
nhập quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội để tận dụng và phát huy tối đa những lợi thế
sẵn có nhằm phát triển đất nước, giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Nhưng cùng với những cơ hội là không ít thách thức đặt ra đối với
chúng ta. Trong bối cảnh như vậy, việc phát huy sức mạnh mềm của đất nước có
thể được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, gia tăng “thương hiệu”, sức mạnh tổng
hợp quốc gia, cũng như bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Copyright: Âm thanh hội trường
Tài
liệu tham khảo
1. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII , Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Đỗ Thị Vân Hà (2022), Phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ CNDVBC & CNDVLS, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Joseph S. Nye Jr, Quyền lực mềm - Ý niệm mới về thành công trong
chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà Nội.
4. Hồ Sĩ Quý (2019), “Về “sức mạnh mềm”
Việt Nam”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử,
ngày 23/6/2019.
5. Nguyễn
Phú Trọng (2021), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Hà Nội.