Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2022

Bí quyết chuyển đổi số thành công

 Bí quyết chuyển đổi số của các quốc gia khởi nghiệp trong thời kỳ 4.0


Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Chính phủ Việt nam cũng đặc biệt quan tâm đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và giao cho Bộ Thông tin &Truyền thông xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia và trình Đề án cho Thủ tướng ngay trong năm 2019. Thế trận lòng dân đã được tác giả Âm thanh hội trường  bật mí về Bí quyết chuyển đổi số thành công.

Trước hết hãy xem sơ đồ chuyển đổi số Việt Nam đế năm 2020

Chuyển đối số là gì

Chuyển đổi số là: Quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.

“Chuyển đổi số” (Digital Transformation) có thể dễ bị nhầm lẫn với khái niệm “Số hóa” (Digitizing). Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...); trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”


Tại sao phải chuyển đổi số

Chuyển đổi số không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà còn mở ra không gian phát triển mới, tạo ra các giá trị mới ngoài các giá trị truyền thống vốn có.

Chuyển đổi số là quá trình khách quan, muốn hay không thì chuyển đổi số vẫn xảy ra và đang diễn ra. Cuộc sống không ngừng vận động, biến đổi. Mỗi người cũng cần không ngừng thay đổi, thích nghi, nếu không sẽ bị bỏ lại ở phía sau. Do đó, có thể chuyển đổi số ngay lập tức bằng cách chuyển đổi về tư duy, nhận thức, sau đó dần chuyển đổi cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.

Vai trò của chuyển đổi số

Đối với Chính phủ: 

Mở ra khả năng phát triển mới, tạo bứt phá để thành công

Đối với doanh nghiệp
- Cung cấp thông tin dữ liệu

- Duy trì tính cạnh tranh của doanh nghiệp
- Nâng cao trải nghiệm của khách hàng
- Tăng cường liên kết thành viên
- Nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm chi phí



















Bí quyết phát triển sức mạnh mềm trong thế giới đương đại

 PHÁT TRIỂN "QUYỀN LỰC MỀM", "SỨC MẠNH MỀM"                                                   

Trong thế giới đương đại, sức mạnh mềm đang được đề cập và nhanh chóng nhận được sự quan tâm lớn của giới nghiên cứu học thuật, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia. Trên thực tế, đã có nhiều quốc gia nghiên cứu, vận dụng tốt lý luận này trong thực tiễn phát triển đất nước và đạt được những thành công nhất định. Việt Nam là quốc gia có địa chính trị,  kinh tế đặc biệt, có bề dày văn hóa truyền thống hàng nghìn năm, đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; hơn lúc nào hết, chúng ta cần phát triển, phát huy tối đa sức mạnh mềm Việt Nam nhằm gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Trong bài này tác giả Việt Hưng - Âm thanh hội trường sẽ chỉ ra Bí quyết để phát triển sức mạnh mềm Việt Nam trong thế giới đương đại


 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của các làn sóng khoa học, công nghệ, nhất là Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư, “sức mạnh mềm” đã trở thành một nguồn “tài nguyên quyền lực” mới của quốc gia, có tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quan hệ quốc tế đương đại. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển đều đang rất quan tâm đến xây dựng, củng cố, khai thác và phát huy sức mạnh mềm của mình như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược quốc gia, một phương thức cơ bản để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia mình. Việt Nam có bề dày văn hóa truyền thống hàng nghìn năm, sức mạnh mềm Việt Nam bắt nguồn từ sự kế thừa và phát huy những giá trị của lịch sử, truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc do những con người được đánh giá là thông minh và sáng tạo, dũng cảm và bản lĩnh, hiếu học và cần cù, khoan dung và nhân hậu... sáng tạo ra; đồng thời, là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từ những thành công của công cuộc đổi mới, vị trí địa - chính trị đặc thù, tính chính nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chính sách đối ngoại khôn khéo, yêu chuộng hòa bình và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới... Những yếu tố trên đã tạo nên “sức mạnh mềm” Việt Nam, rất cần được phát triển và phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.



Hình ảnh về 1 số vũ khí, tăng cường sức mạnh cứng

“Sức mạnh mềm” là khái niệm mới mà các giới nghiên cứu, các chính trị gia đang rất quan tâm đề cập. Hiện nay, có những khái niệm, cách hiểu khác nhau về "sức mạnh mềm", song tựu chung là sự ảnh hưởng, chi phối của quốc gia, dân tộc, chủ thể này với quốc gia, dân tộc, chủ thể khác không bằng sự áp đặt, cưỡng bức (sức mạnh cứng) mà thông qua sự thu phục, thuyết phục, chinh phục, hấp dẫn, tự nguyện, tự giác tuân theo. Một quốc gia được coi là thành công trong việc xây dựng “sức mạnh mềm” khi dựa trên sức hấp dẫn của văn hóa, quan điểm chính trị và chính sách ngoại giao đủ sức lôi cuốn nước khác đi theo mình, không như “sức mạnh cứng” bao gồm: tiềm lực về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật và nguồn tài nguyên mà xưa nay là những sức mạnh hữu hình chi phối các mối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm” có khả năng hỗ trợ làm tăng ảnh hưởng cho nhau. “Sức mạnh cứng” có thể giúp phát huy “sức mạnh mềm”, làm cho “sức mạnh mềm” trở nên hấp dẫn. Theo J. S. Nye, khả năng kết hợp giữa “sức mạnh mềm” và “sức mạnh cứng” sẽ tạo ra “sức mạnh thông minh” (Smart power). Như vậy có thể thấy, sức mạnh mềm là một loại sức mạnh tổng hợp, được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau. Sức mạnh mềm không phải là một thực thể tĩnh mà là một quá trình động, trong đó các nhân tố tạo nên sức mạnh mềm bổ sung, hỗ trợ và tương tác, chuyển hóa lẫn nhau. Theo thời gian, các nhân tố của sức mạnh mềm có thể thay đổi, tiếp biến, do vậy, sức mạnh mềm tổng thể của quốc gia cũng có những biến đổi.

Có thể nói, Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển sức mạnh mềm, nhất là lợi thế về địa chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa xã hội, nhân tố con người. Thực tế thời gian qua, sức mạnh mềm Việt Nam đã được phát triển, phát huy có hiệu quả trong các quan hệ quốc tế và điều đó có ý nghĩa tích cực trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhờ thế, Việt Nam đã và đang dần đóng vai trò “nòng cốt, dẫn dắt, hoà giải, sáng kiến, tích cực, có trách nhiệm” tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể. Minh chứng là, chúng ta đã gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998; WTO năm 2007; CPTPP năm 2018. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện. Trên bình diện đa phương, Việt Nam có nhiều đóng góp hiệu quả và đảm nhiệm thành công vai trò chủ chốt tại các tổ chức và diễn đàn, đặc biệt là Liên hợp quốc, ASEAN. Chúng ta cũng có nhiều đóng góp tích cực trong việc tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn, nhất là vị trí nước chủ nhà của Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (1997), ASEAN (1998, 2010, 2020), ASEM (2005), APEC (2006, 2007), Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần hai năm 2019... Việt Nam cũng chủ động đưa ra nhiều ý tưởng, sáng tạo ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, nhóm các nước G7, G20,... và trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực, toàn cầu.

Có thể thấy, sự chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam trong 36 năm đổi mới vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Hai tiếng “Viet Nam” từ chỗ từng gắn với “Vietnam war” (Chiến tranh ở Việt Nam) đã chuyển sang “Vietnam Renewal” (Công cuộc đổi mới ở Việt Nam) hay “Vietnam Reforms” (Công cuộc cải cách của Việt Nam). Thậm chí, “đổi mới” đã đi vào kho từ vựng quốc tế. Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong mức trên của bảng xếp hạng thế giới, xếp 67/141 nền kinh tế. Cuốn sách “Cường quốc trong tương lai” (2019) của tác giả Hamada Kazuyuki (Nhật Bản) dự báo: năm 2026: Việt Nam nhảy vọt thành cường quốc kinh tế số; năm 2030: GDP của Việt Nam bứt phá mới: 10.000 USD; năm 2048: Việt Nam lọt vào top 20 thế giới về quy mô kinh tế. Thế giới cũng đánh giá Việt Nam đang dần trở thành “một ngôi sao sáng”[1]. Theo báo cáo Chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, Việt Nam xếp thứ 47/105 quốc gia được xếp hạng, tăng 3 bậc so với năm 2020. Báo cáo Nation Brands 2020 của Brand Finance, Việt Nam có giá trị thương hiệu quốc gia tăng nhanh nhất thế giới (29% so với năm 2019). Thứ hạng của Việt Nam cũng cải thiện từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu quốc gia có giá trị nhất của Brand Finance.




Những thành công vượt bậc về kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và đối ngoại... sau 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam chính là kết quả của quá trình phát triển, phát huy sức mạnh mềm Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng (2021) đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH... đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2]. Điều đó đã mang lại những tiền đề quan trọng để chúng ta xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, tiềm lực khoa học – công nghệ quân sự; đưa Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại (sức mạnh quân sự đứng thứ 24/140 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2021 theo xếp hạng của Global Firepower), đáp ứng yêu cầu “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy” như Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã xác định.

Bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có nhiều sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự phát huy được tối đa, chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh để phát triển bền vững đất nước. Việc phát huy hiệu quả các thành tố địa chiến lược chính trị, địa kinh tế, lợi thế địa lý, lịch sử truyền thống, văn hóa, đối nội, đối ngoại, những vấn đề thời đại để nhân lên sức mạnh tổng hợp, tạo ra thế và lực cho đất nước còn có những hạn chế nhất định. Khai thác các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Lực lượng lao động trẻ thông minh và chăm chỉ nhưng do hệ thống giáo dục của Việt Nam còn nhiều yếu kém, bất cập so với thế giới nên hậu quả là ưu thế nguồn nhân lực hiện tại đang gặp nhiều thử thách, không còn là lợi thế cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập; trong khi đó, chính sách trọng dụng nhân tài còn nhiều hạn chế. Chúng ta có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng chúng ta lại chưa có một chiến lược lâu dài để quảng bá hình ảnh một nước Việt Nam có bề dày văn hóa ra thế giới. Những tinh túy của dân tộc chưa truyền được vào trong các sản phẩm mang thương hiệu quốc gia; văn hóa ẩm thực vừa độc đáo vừa hấp dẫn nhưng vẫn chưa được thế giới biết nhiều đến...




Từ những vấn đề trên, để phát triển sức mạnh mềm tích cực chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm từ xa trong tình hình hiện nay cần chú trọng những vấn đề sau đây:


Thứ nhất, xây dựng định hướng chiến lược về phát triển sức mạnh mềm, xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam một cách bài bản, dài hạn, đặc biệt trong kỷ nguyên số. 

Chúng ta cần có tầm nhìn chiến lược từ sớm, đánh giá đúng vai trò của sức mạnh mềm đối với sức mạnh tổng hợp quốc gia và cần tạo được sự nhất quán, thống nhất cao giữa các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương; thúc đẩy và triển khai chiến lược xây dựng sức mạnh mềm trong dài hạn, tạo nên sự phối hợp, liên kết chặt chẽ, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực. Quan tâm và đầu tư hơn nữa trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia. Tập trung khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh, tận dụng lợi thế để phát triển thị trường nội địa và thúc đẩy xuất khẩu thông qua các biện pháp nâng cao giá trị thương hiệu, kết hợp xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp với Thương hiệu quốc gia Việt Nam, tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường quốc tế và tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Mỗi thương hiệu sản phẩm, dịch vụ được thế giới ghi nhận sẽ là hình ảnh đẹp về thương hiệu của đất nước, truyền thống, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam. Không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, áp dụng các cải tiến kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Đẩy mạnh chuyển đổi số, chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Thứ hai, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. 

Đây là điều kiện, tiền đề quan trọng để chúng ta tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau 36 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội, ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch Covid-19. Chất lượng tăng trưởng đã dần được cải thiện, thể hiện ở việc tăng trưởng kinh tế giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, năng suất lao động của chúng ta có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trong 10 năm 2011 - 2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%)[3]. Với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần tiếp tục duy trì tăng trưởng cao và liên tục trong những thập niên tới. Trong bối cảnh tăng trưởng theo phương thức truyền thống, dựa chủ yếu trên mở rộng quy mô lao động giá rẻ hay gia tăng khai thác tài nguyên thiên nhiên đã trở nên hạn hẹp, năng suất lao động chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng địa phương và của khu vực doanh nghiệp. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam cần thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước; chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao; chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải cácbon thấp; cơ cấu lại các ngành nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hoá các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.




Thứ ba, chủ động quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp, nâng cao vị thế đất nước, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Trước tiên, cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò, đóng góp của văn hóa trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thực sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc. Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, trong đó ưu tiên các địa bàn trọng điểm: Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại trong thời kỳ mới để hỗ trợ quảng bá văn hóa, các loại hình nghệ thuật đặc sắc của quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài. Chủ động tham gia, thể hiện vai trò tích cực tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế về văn hóa, cử người làm việc và ứng cử tại các cơ quan chuyên môn ca các tổ chức này; tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch quốc tế quy mô, uy tín. 

Thứ tư, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, tạo thế đan cài lợi ích, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội từ sớm, từ xa, từ bên ngoài. 

Sau 36 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại và mở rộng hội nhập quốc tế, chúng ta đã giành được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[4], cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc; chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; đã phá được thế bị bao vây, cấm vận, bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; chúng ta quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn. Cùng với việc tăng cường ngoại giao Nhà nước, quan hệ đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương.

Thực hiện giải pháp này, trong thời gian tới chúng ta cần phát huy nghệ thuật ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “thêm bạn, bớt thù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt xử lý các vấn đề quốc tế một cách khôn khéo; đồng thời “quyết tâm xây dựng và phát trin một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”[5]. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác, hội nhập quốc tế. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài”[6]. Xác định rõ hội nhập quốc tế là quá trình, vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia. Tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực, quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi. Củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.  Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò định hình, “nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải” trong các cơ chế đa phương; nghiên cứu tham gia xây dựng định hình các thể chế, định chế, luật lệ, chuẩn mực về chính trị; kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với song phương. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh nhằm góp phần “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”[7], “chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”[8]...

Thứ năm, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là đòi hỏi khách quan, thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta, sau 36 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Do đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, là tăng cường "sức mạnh cứng" nhưng thực chất cũng là tăng cường tiềm lực "sức mạnh mềm" cho sự nghiệp BVTQ. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh cần: quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022, của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo...; nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng các yếu tố trong tiềm lực quốc phòng, an ninh: tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, tiềm lực quân sự. Quan tâm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo. Tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật...

Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, là một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nhiều thử thách khốc liệt về thiên tai, địch họa, người Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của việc vận dụng sức mạnh mềm để gia tăng sức mạnh quốc gia, chiến thắng kẻ thù xâm lược. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang chủ động, tích cực tiến hành hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội để tận dụng và phát huy tối đa những lợi thế sẵn có nhằm phát triển đất nước, giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng cùng với những cơ hội là không ít thách thức đặt ra đối với chúng ta. Trong bối cảnh như vậy, việc phát huy sức mạnh mềm của đất nước có thể được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, gia tăng “thương hiệu”, sức mạnh tổng hợp quốc gia, cũng như bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Copyright: Âm thanh hội trường

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII , Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

2. Đỗ Thị Vân Hà (2022), Phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ CNDVBC & CNDVLS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

3. Joseph S. Nye Jr, Quyền lực mềm - Ý niệm mới về thành công trong chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà Nội.

4. Hồ Sĩ Quý (2019), “Về “sức mạnh mềm” Việt Nam”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 23/6/2019.

5. Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hà Nội.



[1] Nguyễn Viết Thông (2021), “Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta hiện nay”, Nguồn: https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/co-do-tiem-luc-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-dat-nuoc-ta-hien-nay.html, ngày 01/04/2021.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb.CTQG-ST, Hà Nội, 2021, tr.103-104.

[3] Hân Nguyễn (2022), “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam”, https://vinasound.com/dan-am-thanh-hoi-truong-san-khau-chuyen-nghiep-128.700.000d ngày 29/11/2022.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII , t. I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, tr.25.

[5] Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hà Nội, tr.201.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021, tr. 135.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021, tr. 117.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021, tr. 163.

Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022

Cuộc chạy đua Vũ khí siêu thanh, vũ khí tinh khôn công nghệ 4.0 giữa các cường quốc hiện nay

 Cuộc chạy đua vũ khí công nghệ cao giữa các cường quốc là chủ đề luôn nóng trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, nhất là trong thời gian gần đây, cuộc chạy đua này càng ráo riết, các nước tranh thủ tối đa thời gian vàng ngọc và lợi thế về công nghệ để phát triển vũ khí công nghệ cao, nhất là vũ khí siêu thanh.

Vũ khí siêu thanh là gì?

 Vũ khí siêu thanh thường được định nghĩa là những loại tên lửa có tốc độ nhanh, bay thấp và có tính cơ động cao. Chúng được thiết kế để dễ dàng “vượt mặt” các loại hệ thống phòng thủ tên lửa truyền thống. Không giống như tên lửa đạn đạo, tên lửa siêu thanh không đi theo quỹ đạo hình cung và không cần phải lập trình trước đích đến.

Thuật ngữ "siêu thanh" dùng để mô tả bất kỳ tốc độ nào nhanh hơn gấp 5 lần tốc độ âm thanh, tức là khoảng 6.116 km/h.

Ở tốc độ siêu âm, các phân tử không khí xung quanh phương tiện bay bắt đầu thay đổi, tách rời hoặc tích điện trong một quá trình gọi là ion hóa.

Hiện có 2 loại vũ khí siêu thanh chính: phương tiện lượn và tên lửa hành trình. Tên lửa hành trình sử dụng động cơ phản lực tốc độ cao. Trong khi đó, phương tiện lượn được phóng ra từ một tên lửa đẩy bay trong không gian, sau đó lượn đến mục tiêu theo đường bay khó đoán trước.

Phương tiện lượn siêu thanh là nhóm vũ khí đang được các quốc gia tập trung phát triển.

Tên lửa siêu thanh có thể bay với tốc độ gấp 5 lần tốc độ âm thanh – tương đương 6.200 km/h trong khí quyển. So với tên lửa đạn đạo liên lục địa, tên lửa này vẫn chậm hơn, nhưng hình dáng nhỏ gọn và đường bay linh hoạt cho phép nó cơ động để tới gần mục tiêu và tránh xa các hệ thống phòng thủ. Trong khi tên lửa đạn đạo bay vào không gian với quỹ đạo hình vòng cung trước khi tiến đến mục tiêu, tên lửa siêu thanh có thể di chuyển linh hoạt ở quỹ đạo thấp hơn, khiến nó khó bị phát hiện.

Nền tảng chính của tên lửa siêu thanh là Hệ thống vũ khí tấn công từ quỹ đạo thấp (FOBS). Tên lửa này không mang đầu đạn hạt nhân hồi quyển truyền thống mà sử dụng phương tiện lướt siêu vượt âm với động năng rất lớn, giúp nó bay trong khí quyển với tốc độ cao, gây khó khăn cho các cơ chế phòng thủ truyền thống. Ngược lại, tên lửa đạn đạo liên lục địa có thể mang nhiều đầu đạn hạt nhân bay trên tầng khí quyển nhưng không tiến vào quỹ đạo trái đất.

Vũ khí siêu thanh Nga RS28-sarmat

Mỗi quả đạn Sarmat dài 35,5 m, có đường kính 3 m, mang được 10-15 đầu đạn hạt nhân hồi quyển độc lập (MIRV) với tổng sức mạnh tương đương 50 triệu tấn thuốc nổ TNT, kèm theo nhiều loại mồi bẫy để đánh lừa hệ thống phòng thủ đối phương. Sarmat cũng có thể lắp đầu đạn siêu vượt âm Avangard hoặc nhiều loại phương tiện lướt siêu vượt âm trong tương lai.

Tầng đẩy của tên lửa hoạt động trong thời gian tương đối ngắn, hạn chế đáng kể khả năng bị phát hiện bởi các vệ tinh trang bị cảm biến hồng ngoại, khiến đối phương gặp nhiều khó khăn trong quá trình bám bắt và đánh chặn.



Với tầm bắn tới 18.000 km, quả đạn có thể được phóng vòng qua Nam Cực, né tránh mạng lưới cảnh giới hướng về phía Bắc Cực của Mỹ. Một số chuyên gia nhận định Sarmat sở hữu tính năng tương tự Hệ thống vũ khí tấn công từ quỹ đạo thấp (FOBS) được Liên Xô phát triển thời Chiến tranh Lạnh, trong đó đầu đạn bay nhiều vòng quanh Trái Đất ở quỹ đạo thấp rồi trở lại khí quyển và lao xuống mục tiêu với tốc độ lớn.

Các nguồn tin giấu tên cho biết trận địa RS-28 Sarmat được trang bị hệ thống phòng thủ chủ động Mozyr, được thiết kế để vô hiệu hóa đòn tấn công phủ đầu của đối phương bằng cách bắn ra một đám mây chứa đầy mũi tên và các viên bi kim loại, có khả năng phá hủy bom, tên lửa hành trình và đầu đạn hạt nhân ở độ cao đến 6 km.

"Loại vũ khí thực sự độc đáo này sẽ tăng cường năng lực chiến đấu cho các lực lượng vũ trang, đảm bảo an ninh cho Nga khỏi các mối đe dọa bên ngoài và khiến những kẻ đang muốn đe dọa chúng ta phải suy nghĩ lại", Tổng thống Putin phát biểu trên truyền hình Nga hôm 20/4.

Vũ khí siêu thanh của Trung Quốc DF41

"DF-41 là vũ khí chiến lược thế hệ thứ tư của Trung Quốc với tầm bắn xa nhất trong số tên lửa xuyên lục địa hiện có", chuyên gia công nghệ tên lửa và chiến lược hạt nhân Trung Quốc Yang Chengjun nói. Yang cho biết công nghệ của DF-41 đã được hoàn thiện và không có sự cố nào trong quá trình thử nghiệm.

Theo truyền thông Trung Quốc, DF-41 có tầm bắn lên đến 15.000 km, trở thành tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) bắn xa nhất thế giới. Các đối thủ chính của nó gồm tên lửa LGM-30 Minuteman của Mỹ có tầm bắn 13.000 km, còn mẫu RS-24 Yars của Nga có tầm bắn 12.000 km.

DF-41 sử dụng nhiên liệu rắn và được gắn trên bệ phóng di động, giúp nó có tính cơ động cao và thời gian phóng ngắn, khiến đối phương khó theo dõi. Một số chuyên gia cho biết DF-41 còn có thể được triển khai tại các giếng phóng ở vùng đông bắc Trung Quốc. Nước này có thể đang phát triển bệ phóng chạy trên đường sắt cho DF-41, được ngụy trang dưới dạng toa xe tàu hỏa thông thường.

Các tính năng này được cho là giúp tăng tốc độ phản ứng và khả năng sống sót của lực lượng hạt nhân Trung Quốc trước các đợt tấn công phủ đầu của đối phương.

Với tải trọng 2,5 tấn, DF-41 có thể mang theo 10 đầu đạn hồi quyển độc lập (MIRV) và trên lý thuyết có thể tấn công mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ chỉ 30 phút sau khi phóng, theo Dự án Phòng thủ Tên lửa thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.

DF-41 còn có thể mang theo mồi nhử và các thiết bị hỗ trợ thâm nhập khác để vượt qua hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương. Tính năng này được phát triển để đối phó các hệ thống chống tên lửa đạn đạo tầm xa như Hệ thống Phòng thủ Tên lửa Đạn đạo (BMDS) của Mỹ.

Trung Quốc có thể phát triển DF-41 từ trước năm 2000 và dự án từng bị hoãn lại nhiều lần. DF-41 được phóng thử ít nhất 8 lần kể từ năm 2012, lần thử mới nhất diễn ra đầu tháng 11/2017 tại vùng sa mạc phía tây nước này, trước khi được biên chế với quy mô hai lữ đoàn vào cuối 2017.

Vũ khí siêu thanh của Mỹ - Tên lửa ARROW-4

Với tính năng đỉnh cao, Arrow-4 sẽ bẻ gãy mọi tên lửa của Nga và Iran có trong trang bị và đang nghiên cứu. Hệ thống Arrow-4 có khả năng tiêu diệt mục tiêu đạn đạo từ cự ly 700km ở tầm cao 250 km và di chuyển với tốc độ trên Mach 8.

So sánh với hai loại tên lửa 77N6-N và 77N6-N1 trang bị tiêu chuẩn của S-500 Nga - loại đạn chỉ thể bắn hạ tên lửa đạn đạo bay với tốc độ Mach 7 ở tầm xa 600 km và trần bay 200 km cho thấy, khả năng đánh chặn của S-500 thua kém Arrow-4 khá xa.

Được biết hệ thống tên lửa đánh chặn Arrow-3, tiền thân của Arrow-4 đã chính thức đi vào hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ Israel năm 2017.

Sự kết hợp giữa Arrow và David's Sling (lớp giữa) cùng với Iron Dome (trong cùng) tạo ra chiếc lá chắn 3 lớp đầy tin cậy, giúp quốc gia Do Thái có thể yên tâm trước bất cứ mối đe dọa tên lửa đạn đạo nào đến từ những quốc gia láng giềng.

Tại Mỹ, Arrow-4 sẽ được tích hợp với THAAD, hệ thống Aegis và Patriot PAC-3 tạo thành một mạng lưới đánh chặn hợp nhất giúp đối phó với hầu hết những mục tiêu đường không khác nhau.

Mỹ chậm chân hơn Nga và Trung Quốc?

Theo Hãng tin Bloomberg, hiện nay Trung Quốc, Mỹ và Nga là những cường quốc có những năng lực vũ khí siêu thanh tiên tiến nhất.

Một số quốc gia khác đang nghiên cứu công nghệ này, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Pháp, Đức và Triều Tiên, và cũng đã tuyên bố thử nghiệm tên lửa siêu thanh.

Avangard của Nga là một phương tiện lượn được phóng từ tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và mang đầu đạn hạt nhân.

Các nguồn tin Nga cho biết Avangard đã tham gia trực chiến từ tháng 12-2019. Ngoài ra, Nga còn có Tsirkon là tên lửa hành trình phóng từ tàu, có khả năng tấn công các mục tiêu trên bộ và dưới nước.

Quân đội Trung Quốc đã tiến hành 2 cuộc thử nghiệm vũ khí siêu thanh vào mùa hè năm 2021, bao gồm cả việc phóng vào vũ trụ một vũ khí siêu thanh trên quỹ đạo có khả năng mang tải trọng hạt nhân.

Tờ Financial Times đưa tin đầu tiên về các cuộc thử nghiệm. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bác bỏ các thông tin về các cuộc thử nghiệm, nói rằng họ chỉ đơn giản là phóng một phương tiện vũ trụ có thể tái sử dụng.

 Trước đó, Trung Quốc đã tiến hành một số vụ thử nghiệm thành công DF-17, một tên lửa đạn đạo tầm trung được thiết kế để phóng các phương tiện lượn siêu thanh.

Trung Quốc cũng đã thử nghiệm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-41, tên lửa có thể được sửa đổi để mang theo phương tiện bay hạt nhân hoặc thông thường.

Trong khi đó, ông Gregory Hayes - giám đốc điều hành của nhà thầu quốc phòng Mỹ Raytheon Technologies Corp. - nói với kênh truyền hình Bloomberg TV ngày 26-10 rằng Mỹ đi sau Trung Quốc "ít nhất vài năm" về công nghệ siêu thanh mặc dù đã đầu tư đáng kể.

Mối nghi kỵ của Phương Tây với Nga và Trung quốc

 Trong một lần xuất hiện trên kênh truyền hình Bloomberg, tướng Mark Milley - chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân - nói vũ khí siêu thanh của Mỹ không giống những vũ khí đang được phát triển ở Trung Quốc và Nga. Chúng đang được thiết kế để mang vũ khí thông thường chứ không phải vũ khí hạt nhân.

Tuy nhiên, điều này mang lại sự yên tâm ít ỏi cho các đối thủ tiềm năng của Mỹ. Họ sẽ không có cách nào biết được liệu vũ khí như vậy có thực sự mang đầu đạn hạt nhân khi nó đang bay hay không.

Các chuyên gia quân sự cảnh báo về một kịch bản chạy đua vũ trang giữa Mỹ, Trung Quốc và Nga nhằm phát triển vũ khí siêu thanh và điều này có thể dẫn đến các cuộc xung đột quân sự.

Động thái này diễn ra chỉ vài ngày sau khi tờ Financial Times hôm 17/10 đưa tin, Trung Quốc vừa thử nghiệm một tên lửa siêu thanh có khả năng hạt nhân mới vào tháng 8 vừa qua. Tên lửa này được phát triển từ Hệ thống vũ khí tấn công từ quỹ đạo thấp (FOBS), sử dụng phương tiện lướt siêu thanh với động năng rất lớn, có thể bay nhiều vòng quanh Trái Đất ở quỹ đạo thấp và tấn công mục tiêu ở khoảng cách xa. Nhiều quan chức và nhà lập pháp Mỹ đã cảnh báo rằng, đây là bước đi vô cùng nguy hiểm của của Trung Quốc.  

Công nghệ FOBS không phải là mới. Liên Xô đã triển khai một hệ thống như vậy bắt đầu từ những năm 1970, sau đó loại bỏ vào giữa những năm 1980. Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu FOBS vào những năm 1970, nhưng đã thử nghiệm không thành công.

Vậy tại sao ở thời điểm hiện tại các nước lại chạy đua phát triển công nghệ tên lửa siêu thanh này? Theo giới phân tích, câu trả lời khá đơn giản: Nếu FOBS có thể hoạt động, nó sẽ đóng vai trò là con át chủ bài trong hàng loạt cuộc chạy đua về công nghệ và địa chính trị, giúp Trung Quốc chứng minh khả năng phát triển tên lửa tầm xa và Mỹ khẳng định tiến bộ trong công nghệ phòng thủ tên lửa.  

Jeffrey Lewis, nhà phân tích tại Trung tâm nghiên cứu không phổ biến vũ khí hạt nhân James Martin thuộc Viện nghiên cứu Quốc tế Middlebury cho rằng, khái niệm về vũ khí này đã có từ lâu nhưng giờ đây nó mới được sử dụng như một cách thức để đánh bại hệ thống phòng thủ tên lửa.

Mỹ và Trung Quốc luôn đề phòng lẫn nhau

Doug Loverro, cựu quan chức tại Bộ Quốc phòng  Mỹ lưu ý: “Tôi cho rằng chúng ta cần phải suy nghĩ lại về cách thức thực hiện phòng thủ tên lửa. Chúng ta cần phải hiểu rằng Trung Quốc đang tiếp tục làm việc để khai thác các lỗ hổng trong các hệ thống cảnh báo và hệ thống phòng thủ của chúng ta ở mức độ lớn hơn nhiều so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh”.

Trung Quốc và Nga đã công khai chống lại các hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ kể từ thời chính quyền Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Thời gian gần đây, các nhà phân tích Trung Quốc đã bày tỏ lo ngại về sự hiện diện ngày càng gia tăng của các hệ thống phòng thủ tên lửa Mỹ tại những nơi gần Trung Quốc, trong đó có việc triển khai hệ thống phòng thủ Aegis Ashore ở Nhật Bản.

“Một số nhà phân tích Trung Quốc cho rằng, bằng cách sử dụng “chuỗi phòng thủ tên lửa” bao vây Trung Quốc, Mỹ đang tìm cách thiết lập “ưu thế tuyệt đối về an ninh” và làm suy yếu “sự trỗi dậy của Bắc Kinh”, Tong Zhao chuyên gia an ninh hạt nhân tại Trung tâm Chính sách Toàn cầu Carnegie – Tsinghua ở Bắc Kinh lưu ý.

Giới chức Trung Quốc cho rằng chính sách phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Thái Bình Dương là nhằm kiềm chế nước này. Nhưng ông Tong Zhao đã đặt ra câu hỏi về việc liệu người dân Trung Quốc có thực sự lo ngại về những hệ thống này hay không khi mà họ nắm rất ít thông tin chi tiết về nó.

Các nhà lãnh đạo Mỹ từ lâu đã bác bỏ những mối lo ngại của Trung Quốc và Nga về hệ thống phòng thủ tên lửa của nước này. Họ khẳng định rằng những hệ thống đó đang hoạt động như vũ khí chống vệ tinh để ngăn các quốc gia sử dụng không gian nhằm mục đích do thám hoặc tấn công Mỹ. Washington nhiều lần tuyên bố, các hoạt động phòng thủ tên lửa của họ không nhắm vào Trung Quốc mà đó là nhưng “quốc gia bất hảo”.

Cả Mỹ và Liên Xô đều nghiên cứu về FOBS trước đây. Liên Xô đã triển khai một hệ thống như vậy bắt đầu từ những năm 1970, nhưng sau đó loại bỏ vào giữa những năm 1980. Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm có nhiều lợi thế giống của FOBS, như khó bị phát hiện và rất khó xác định nơi bắt đầu một cuộc tấn công, nhưng so với FOBS, nó hoạt động ổn định hơn.

Cuộc đua về vũ khí siêu thanh ngày càng nóng hơn

Theo Financial Times, Trung Quốc đã phóng thử tên lửa siêu thanh có khả năng bay vòng quanh Trái Đất trước khi tăng tốc nhắm đến mục tiêu. Tên lửa này bay vào quỹ đạo thấp của Trái Đất trước khi quay lại bầu khí quyển với tốc độ siêu thanh. Mặc dù tên lửa bay trượt mục tiêu khoảng 3km song vụ thử cho thấy Bắc Kinh đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc phát triển vũ khí siêu thanh so với những gì giới chức Mỹ tính toán. 

Cùng với Trung Quốc, Mỹ, Nga và ít nhất 5 quốc gia khác đang phát triển công nghệ siêu thanh.  Trước đó vào tháng 7, Nga đã thử nghiệm tên lửa hành trình siêu thanh Zircon mà Tổng thống Vladimir Putin giới thiệu là một phần của hệ thống tên lửa thế hệ mới. Đến tháng 10, Nga đã phóng thử thành công tên lửa này từ tàu ngầm.

Mỹ cũng không chịu kém cạnh trong cuộc đua. Cuối tháng 9 vừa qua, Mỹ đã thử nghiệm thành công một loại vũ khí siêu thanh có tốc độ lớn hơn Mach 5, có thể tự bay trong khí quyển giống như tên lửa hành trình. Đây là lần đầu tiên Washington thử nghiệm thành công loại vũ khí này kể từ năm 2013.

Vài ngày sau tuyên bố của Mỹ, Triều Tiên phóng thử một tên lửa siêu thanh mà nước này mới phát triển, coi đây là "vũ khí chiến lược" giúp tăng cường khả năng phòng thủ, dù vậy, một số nhà phân tích Hàn Quốc cho rằng, vụ thử nghiệm đã thất bại.

 Thế giới đáng lo ngại về chạy đua vũ khí siêu thanh

Theo giới phân tích, các vụ thử nghiệm nói trên là những động thái mới nhất trong một cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm. Bên cạnh các cường quốc quân sự, nhiều quốc gia châu Á nhỏ hơn cũng đang cố gắng phát triển những tên lửa tầm xa tiên tiến. Vũ khí siêu thanh và FOBS gây ra nhiều lo ngại vì chúng có khả năng né tránh các hệ thống phòng thủ tên lửa và hệ thống cảnh báo sớm. Tuy vậy, một số chuyên gia cảnh báo không nên thổi phồng khả năng của các loại tên lửa giống như tên lửa mà Trung Quốc đã thử nghiệm vào tháng 8.

Jeffrey Lewis, nhà phân tích tại Trung tâm nghiên cứu không phổ biến vũ khí hạt nhân James Martin thuộc Viện nghiên cứu Quốc tế Middlebury cho rằng: "Trung Quốc đang sở hữu 100 tên lửa liên lục địa được trang bị đầu đạn hạt nhân có thể vươn tới lục địa Mỹ". Ông nhấn mạnh: "Vũ khí siêu thanh là một vũ khí tuyệt vời, nhưng khái niệm về vũ khí này đã có từ lâu và hiện giờ nó mới được sử dụng như một cách thức để đánh bại hệ thống phòng thủ tên lửa”./.

heo Bloomberg, các cường quốc quân sự như Mỹ, Trung Quốc và Nga hiện có năng lực vũ khí siêu thanh tiên tiến nhất thế giới. Ngoài ra, một số quốc gia khác cũng đang nghiên cứu công nghệ này và đã đạt được một số thử nghiệm thành công nhất định, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Đức và Triều Tiên. Báo cáo gần đây của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS) cho hay, Iran, Israel và Hàn Quốc đã tiến hành những nghiên cứu cơ bản về công nghệ này.

Theo đánh giá của giới phân tích, trong những năm gần đây, Nga đã phát triển nhanh chóng vũ khí siêu thanh với nhiều loại tên lửa không chỉ có khả năng bay với tốc độ hơn Mach 5. Đó là những tên lửa Avangard, Kinzhal và Zircon.

Trong đó, Zircon là thành tựu mới nhất của quân đội Nga khi tên lửa này có thể đạt tầm bắn lên tới 1.000km và bay nhanh đến mức áp suất không khí phía trước nó hình thành một đám mây plasma khi tên lửa di chuyển, hấp thụ sóng vô tuyến và khiến nó vô hình trước hệ thống radar đang hoạt động.

Trung Quốc cũng đang tập trung phát triển công nghệ này và coi điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đối phó với Mỹ trên lĩnh vực siêu thanh cũng như các công nghệ khác.

Theo truyền thông phương Tây, mùa Hè vừa qua, quân đội Trung Quốc có thể đã tiến hành hai cuộc thử nghiệm vũ khí siêu thanh, bao gồm việc phóng vũ khí siêu thanh có thể mang đầu đạn hạt nhân vào không gian. Tên lửa này bay quanh Trái Đất ở quỹ đạo tầm thấp trước khi lao xuống nhưng còn cách mục tiêu đến 32 km.

Trong khi đó, Bắc Kinh phản bác các báo cáo này và khẳng định, họ chỉ đơn giản phóng một phương tiện vũ trụ có thể tái sử dụng, giống như chương trình tàu con thoi của SpaceX.

Tháng Mười vừa qua, quân đội Mỹ cho biết đã thực hiện thành công ba vụ thử nghiệm công nghệ tên lửa siêu thanh. Sắp tới, Hải quân và Lục quân Mỹ sẽ cùng tiến hành cuộc thử nghiệm phóng tên lửa siêu thanh trong năm tài chính 2022 của Mỹ.

Theo Bloomberg, Bộ Quốc phòng Mỹ đang có một chương trình phát triển công nghệ siêu thanh mạnh mẽ với kế hoạch tiến hành 40 cuộc thử nghiệm trong năm năm tới. Dự kiến, tổng ngân sách từ năm 2015-2024 để phát triển vũ khí siêu thanh là 15 tỷ USD, chưa bao gồm chi phí sản xuất.

Cuối tháng Chín, Triều Tiên khẳng định thử nghiệm thành công tên lửa siêu thanh mới, mà nước này gọi là “vũ khí chiến lược”. Tuy nhiên, theo báo cáo của quân đội Mỹ và Hàn Quốc, Bình Nhưỡng mới chỉ tập trung vào “khả năng cơ động” cũng như “các đặc điểm bay” và còn rất lâu mới có thể thực sự nắm bắt được công nghệ này

 Biên soạn, tổng hợp Thế trận lòng dân

Trên đây là khái lược ban đầu về cuộc chạy đua vũ khí siêu thanh do Hệ thống truyền thanh thông minh đề xuất, sau đó cùng Thế trận lòng dân và một số đồng nghiệp tổng hợp nghiên cứu. Chúng tôi sẽ tiếp tục update thường xuyên.