Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

Những bài học kinh nghiệm về xây dựng Thế trận lòng dân trong lịch sử dựng nước giữ nước Việt Nam

Những Bài học kinh nghiệm về xây dựng Thế trận lòng dân Việt Nam

Xây dựng thế trận lòng dân có vị trí, vai trò rất quan trọng làm nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; phòng, chống có hiệu quả các âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và thực trạng xây dựng thế trận lòng dân trong trong lịch sử dân tộc Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm xây dựng thế trận lòng dân Việt Nam.
Một là, xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh là nhân tố có ý nghĩa quyết định xây dựng thế trận lòng dân vững chắc
Dựng nước và giữ nước phải dựa vào lực lượng, sức mạnh của toàn dân và có sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng ấy mới được quy tụ, sức mạnh đó mới được phát huy. Đường lối chính trị, quân sự đúng đắn và được thực hiện có hiệu quả thì thời bình, nước giàu, binh mạnh, dân no đủ, yên ngoài, ổn trong, khi có chiến tranh thì đất nước có đủ sức mạnh để đánh thắng kẻ thù. Đường lối đúng đắn đó là ngọn cờ để quy tụ, phát huy sức mạnh của yếu tố lòng dân. Được lòng dân mới có thể xây dựng được thế trận lòng dân giữ nước. Lịch sử nước ta cũng có những bước thăng trầm, sự nghiệp xây dựng thế trận lòng dân giữ nước có nhiều thành công nhưng cũng có thất bại. Đường lối chính trị đúng đắn là phải đáp ứng yêu cầu giữ nước, củng cố nền độc lập, thống nhất của đất nước. Để xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh, các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ đã chú ý việc chọn nhân tài vào đội ngũ quan lại các cấp; các triều đại đều chú ý đến xây dựng và ban hành luật, lệnh để quy tụ lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh của cả nước giữ nước. Nhà Lý ban hành bộ Hình thư năm 1042, triều Lê Sơ, ban hành bộ Quốc triều hình luật, còn gọi là bộ Luật Hồng Đức...
                Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược  và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta đã luôn quan tâm đến xây dựng chính quyền vững mạnh đi đôi với xác định đường lối đúng đắn và không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh trong tiến trình cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc đã xác định rõ quan điểm, tư tưởng, phương châm của kháng chiến. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã tạo dựng nên một thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, quy tụ được sức mạnh chính trị - tinh thần của cả dân tộc trong kháng chiến trước đây cũng như trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
          Hệ thống chính trị vững mạnh và đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hệ thống chính trị vững mạnh, có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo sẽ có sức mạnh to lớn thu  hút, tập hợp, quy tụ, điều khiển quần chúng nhân dân tiến hành cách mạng. Ngược lại, hệ thống chính trị yếu kém, đường lối chính trị không sát thực, sai lầm, hạn chế, thiếu sáng tạo sẽ không quy tụ, phát huy sức mạnh của lực lượng quần chúng, làm hạn chế thế trận lòng dân.
          Đường lối kháng chiến đúng đắn sáng tạo mà mục tiêu tối cao, bao trùm nhất là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, được cụ thể hoá vào mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức tác chiến đã phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, quy tụ, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, tạo nên sự đồng thuận, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, chăm lo xây dựng chế độ dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân là yếu tố cốt lõi để xây dựng thế trận lòng dân

Tư tưởng coi dân là gốc của nước đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử dân tộc. Mọi triều đại khi dựng nghiệp do coi trọng tranh thủ lòng dân nên không những nâng cao được sức mạnh giữ nước mà còn củng cố được vương triều. Để được lòng dân, được nhân dân tin theo, lực lượng lãnh đạo đất nước đã chăm lo đến đời sống của nhân dân. Các vương triều tiến bộ khi muốn củng cố thế nước mạnh đều chú ý ban hành chính sách "an dân" mà quan trọng nhất là "khoan thư sức dân". Về kinh tế thì chú ý thuế khóa hợp sức dân chứ không để dân cạn kiệt: Gặp phải năm thiên tai phải kịp thời xem xét việc giảm hay miễn thuế để dân yên tâm phục hồi sản xuất. Cùng với ban hành các chính sách kinh tế, các vương triều tiến bộ rất chú ý đến việc thực hiện chính sách xã hội như thu thập ý nguyện dân chúng (Triều Lý), họp đại hội quốc dân (Hội nghị Diên Hồng Triều Trần), ban hành luật pháp có những điểm tiến bộ (Luật Hồng Đức triều Lê Sơ), tổ chức các cuộc kinh lý để tìm hiểu đời sống nhân dân...


{{{Một kinh nghiệm quý về xây dựng thế trận lòng dân thời kì 4.0
Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam 
là hãng công nghệ hàng đầu về các thiết bị điện tử, 
công nghệ số tự hào Made in Việt Nam thời đại cách mạng 
công nghiệp 4.0. Các thiết bị truyền thanh AAV đều được các kĩ
 sư giỏi nhất về âm thanh, ánh sáng, điện tử, tự động hóa, công 
nghệ thông tin nghiên cứu, chế tạo, được sản xuất trên dây chuyền
 hiện đại, linh kiện cao cấp. Do vậy, sản phẩm thiết bị truyền thanh
 AAV Việt Nam - made in Việt Nam chất lượng quốc tế, giá thành 
Việt Nam. Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại. 
Có thể xem chi tiết hơn tại: Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam
Hãng AAV Việt Nam đã thực sự quy tụ được những tài hoa nhất để 
tạo dựng thương hiệu Made in Vietnam. Đây cũng chính 
là một cách thức mới về xây dựng thế trận lòng dân 
trong thời kì cách mạng công nghiệp lần thứ 4}}}

Nhân tố trung tâm, cốt lõi có ý nghĩa quyết định để xây dựng, phát huy sức mạnh của thế trận lòng dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ cứu nước và trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là việc thiết lập chế độ xã hội mới, chế độ dân chủ nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… quyền hành và lực lượng ở nơi dân”[1]. Theo quan điểm đó, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành nhiều biện pháp để củng cố, kiện toàn Nhà nước dân chủ nhân dân làm cho nó trở nên “mạnh mẽ, nhanh chóng, quyết đoán, thống nhất, tập trung” đảm đương được nhiệm vụ “điều khiển chiến tranh và kiến thiết chế độ dân chủ nhân dân”. Chính quyền dân chủ nhân dân đã ban hành nhiều chính sách để thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, đối nội, đối ngoại. Trong suốt tiến trình cách mạng, Nhà nước ta luôn được nhân dân tin tưởng, ủng hộ. Quân và dân ta tin ở sức mạnh của dân tộc, tin ở sức chịu đựng của mình, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, ai cũng đem hết tài năng để sáng tạo tất cả những gì có thể tạo nên sức mạnh to lớn đảm bảo cho cách mạng thắng lợi. Đó là thể hiện cao độ của thế trận lòng dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, thường xuyên kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước là điều kiện tiên quyết để thế trận lòng dân được xây dựng có chất lượng, hiệu quả cao

Trong lịch sử đấu tranh để tồn tại và phát triển của dân tộc, ông cha ta luôn nhắc nhở mọi thế hệ phải nắm vững quy luật "Dựng nước luôn phải đi đôi với giữ nước, xây dựng kinh tế gắn với củng cố quốc phòng". Vì thế "dân giàu nước mạnh", "Quốc phú binh cường". Các nhà nước phong kiến tiến bộ đã chăm lo sản xuất nông nghiệp, "coi việc ruộng là gốc rễ của nước", chủ trương "dồn hết sức vào việc làm ruộng, để cho sự tích trữ trong nước được dồi dào". Các triều: Lý, Trần, Lê Sơ... thường ra chiếu khuyến nông, có chính sách khuyến khích việc khai hoang mở rộng diện tích, đặt thuế khích lệ sản xuất. Để bảo vệ sản xuất nông nghiệp, nhà nước còn ban hành các điều luật về việc cấm lạm sát trâu bò, quản lý chặt nhân đinh ở xã, nghiêm cấm và trừng trị kẻ rong chơi lêu lổng, tích cực đắp đê, xẻ mương máng tưới tiêu, nạo vét sông ngòi... Ngoài nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng được các triều đình chú trọng phát triển không những phục vụ đời sống nhân dân mà còn phục vụ quốc phòng. Nghề dệt, gốm, rèn đúc, đóng thuyền... vừa sản xuất vật dụng cho sinh hoạt, còn chế tạo trang bị vũ khí cho quân đội.
Cùng với việc phát triển nông nghiệp ở đồng bằng, các triều đại tiến bộ không coi nhẹ việc xây dựng kinh tế ở các vùng biên cương và những địa bàn trọng yếu. Các đơn vị quân đội đồn trú, canh phòng biên cương cũng khai phá đất hoang, lập đồn điền, sản xuất để có lương thực dự trữ tại chỗ. Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, các nhà nước phong kiến còn xúc tiến mở mang, tu bổ giao thông thủy bộ trong nước, như ở các triều đại: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ... Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, với đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã phát huy cao độ thế trận lòng dân, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn giành chiến thắng. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đảm bảo cho đất nước luôn ổn định, phát triển bền vững.

 Bốn là, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh là vấn đề chiến lược xuyên suốt để xây dựng thế trận lòng dân

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nước ta thường xuyên bị các thế lực phong kiến, thực dân to lớn từ phương Bắc, phương Tây nhòm ngó, đe dọa và xâm lược. Nhưng dân tộc Việt Nam đã không ngừng chiến đấu và chiến thắng, ngày nay đã giành được độc lập và thống nhất đất nước một cách trọn vẹn. Đó là nhờ ý thức dân tộc, tinh thần đoàn kết toàn dân, không phân biệt tộc người, tôn giáo, đảng phái, hễ là người Việt Nam cùng lo xây dựng và bảo vệ đất nước, sẵn sàng hy sinh cho thắng lợi chung của dân tộc.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, các triều đại phong kiến trước kia và Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay đều trú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nền tảng chính trị - xã hội vững chắc phát huy thế trận lòng dân. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được xây dựng trên cơ sở truyền thống yêu nước, đường lối kháng chiến với mục tiêu là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là sợi chỉ đỏ, chất keo gắn kết mọi tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh để nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Writer by Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam 
and Editing by Tăng âm truyền thanh AAV Việt Nam
 in April, 2019

              




[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG-ST, H.2011, Tr.698

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2019

Làm thế nào trở thành Người lãnh đạo giỏi

MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG VỀ LÃNH ĐẠO

                                                                     Copy right by: Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam
                                                                     Edit by: Tăng âm truyền thanh AAV Việt Nam

Theo John Adair, người lãnh đạo là những người có trình độ, khả năng tạo ra những điều kiện nhất định để tiến hành các hoạt động. Và quan trọng hơn cả, Nguời lãnh đạo là người có khả năng tập hợp, lôi kéo được nhiều người tích cực tham gia thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Còn Peter,F. Drucker lại viết trong cuốn sách “Cách thức quản lý” năm 1955 là “Người lãnh đạo không chỉ là người đơn thuần có khả năng lôi cuốn người khác vì đôi khi đó chỉ là sự mị dân. Đó cũng không đơn giản là khả năng gây cảm tình và thuyết phục người khác vì nó dễ nhầm lẫn với kỹ năng thuyết phục của một nguời bán hàng. Người Lãnh đạo là người có tầm nhìn ở mức cao hơn, và thường hướng việc thực hiện công việc tới một tiêu chuẩn cao hơn và phát triển tính cách con người vượt qua những giới hạn thông thuờng”. Với những quan điểm như vậy, người Lãnh đạo có thể một người rất kiệt xuất, có sức “thu hút và khơi dậy” lòng nhiệt huyết và sự cống hiến hết mình của người khác. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều tên các Nhà Lãnh đạo kiệt xuất trong lịch sử như Hồ Chí Minh - Người Anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hoá lớn của Việt Nam; Mahatma Gandhi - Vị lãnh tụ của phong trào đấu tranh giành quyền tự chủ của nhân dân Ấn Độ; Nelson Mandela - Vị tổng thống da mầu đầu tiên của đất nước Nam Phi; Bà Emmeline Pankhurst – Nhà lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giành quyền tham gia bầu cử của phụ nữ Anh....Mỗi nhà Lãnh đạo kể trên đều để lại những dấu ấn vẻ vang trong lịch sử. Bên cạnh đó còn có nhiều nhà lãnh đạo nổ tiếng trong lĩnh vực công nghiệp và kinh doanh thương mại. Đó là những nhà lãnh đạo trong doanh nghiệp.  Chúng ta cũng gặp rất nhiều doanh nhân có khả năng thu hút người khác, lôi cuốn và khích lệ sự nhiệt tình làm việc của nhân viên vì mục đích phát triển doanh nghiệp. Nếu chỉ lấy tiêu thức “khả năng lôi cuốn và động viên người khác” để xác định ai là người lãnh đạo trong doanh nghiệp thì có thể kể đến một Giám đốc công ty, cũng có thể là một cán bộ quản lý cấp trung gian trong công ty và cũng có thể là một trưởng nhóm bán hàng hoặc có thể là một người không có một chức danh quản lý nào trong công ty nhưng có khả năng lôi cuốn người khác rất lớn. Ta có thể nói tất cả những người trong doanh nghiệp có khả năng khiến người khác làm việc vì mục tiêu phát triển doanh nghiệp một cách tự nguyện đều là người có khả năng lãnh đạo. Những người có chức danh quản lý trong doanh nghiệp ở các cấp độ từ giám đốc, phó giám đốc, trưởng phó các đơn vị trong doanh nghiệp đều có những vai trò lãnh đạo ở những mức độ khác nhau.  Tuy nhiên, cách tiếp cận của giáo trình này nhấn mạnh đến người lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như giám đốc điều hành CEO của doanh nghiệp.  Vậy, lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp – giám đốc điều hành doanh nghiệp có vị trí vai trò gì? Từ trước đến nay, giám đốc điều hành doanh nghiệp (CEO) vẫn được mọi người hiểu là người có trách nhiệm điều hành cao nhất trong một doanh nghiệp hay một tập đoàn lớn. Các chuyên gia về quản lý đã đưa ra một định nghĩa rất tổng quát về CEO: “CEO là người trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu của các cổ đông và các nhà đầu tư, chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về toàn bộ kết quả hoạt động của doanh nghiệp”. Nhắc đến chiếc ghế CEO là người ta nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc, nơi mà lương hàng năm của các CEO luôn ở mức rất cao trong các tập đoàn đa quốc gia. Giám đốc điều hành của Citigroup, Charles Prince, nhận được 30,2 triệu USD trong năm 2004; Robert Willumstad, Giám đốc kinh doanh CitiGroup, nhận được 28,6 triệu USD năm 2004.  Tiền bạc khổng lồ như vậy của các CEO thì hẳn ai cũng biết, nhưng có lẽ ít người biết đến những “cay đắng và gánh nặng” đồng hành với vinh quang. Bởi vì khi các công ty làm ăn thua lỗ giám đốc điều hành cũng là người chịu thiệt cùng với nhân viên. Bằng chứng là Giám đốc điều hành của tập đoàn Tyco đã phải chứng kiến mức lương của mình giảm sút 12% khi cổ phiếu của Tyco trượt giá 71%. Tiền bạc nhiều, quyền lực lớn nhưng chưa hẳn các CEO đã thật sự sung sướng. Đối với những người trong cuộc, CEO luôn là một nghề vô cùng vất vả và khắc nghiệt. Trong những tháng cuối năm 2003, tầng 12 một cao ốc ở trung tâm Seoul, Hàn Quốc và tầng 56 của Khách sạn Aston ở thủ đô Jakarta, Indonesia hai giám đốc điều hành lừng danh là Chung Mong Hun, CEO của tập đoàn Hyundai Asian và người kia là Manimaren, CEO của tập đoàn dệt may lớn nhất Indonesia Texmaco đã phải nhảy lầu tự vẫn. Ở các công ty lớn, hội đồng quản trị là người chủ thực sự của các doanh nghiệp thuê giám đốc điều hành về làm công ăn lương với những điều khoản hợp đồng và trách nhiệm cụ thể.  Không làm tròn trách nhiệm, để công ty thua lỗ thì giám đốc điều hành CEO không những sẽ phải ra đi mà họ còn là người “đứng mũi chịu sào” trước pháp luật, còn Hội đồng quản trị sẽ ung dung tiếp tục tìm thuê các người khác có năng lực chuyên môn và nghệ thuật quản lý cao hơn. Đó là quy luật đào thải khắc nghiệt trong kinh tế thị trường. Hơn nữa, khi phải ra đi vì để công ty thua lỗ thì coi như danh tiếng của CEO đã bị “bỏ đi” và rất khó còn chỗ đứng trên thương trường. Vị trí của CEO trong doanh nghiệp có thể được minh hoạ như một nhà quản lý phải giải quyết các mối quan hệ ngang dọc, đa chiều như biểu hiện trong hình sau:   Như vậy, trên thực tế để thực hiện tốt công việc của mình, giám đốc điều hành doanh nghiệp phải làm việc tốt với ít nhất là 5 đối tác quan trọng chính là (1) các chủ sở hữu/nhà đầu tư mà đại diện là chủ tịch hội đồng quản trị; (2) Cán bộ quản lý và nhân viên dưới quyền; (3) Đại diện chính quyền địa phương/các sở ban ngành và cơ quan quản lý Nhà nước; (4) Khách hàng cá nhân và tổ chức; (5) Giám đốc và lãnh đạo các công ty khác. Những đối tác quan trọng này có mong đợi khác nhau đối với giám đốc điều hành xuất phát từ vị thế và những giá trị cá nhân của họ được thể hiện khi làm việc với các giám đốc điều hành. Ví dụ, chủ đầu tư bao giờ cũng mong muốn CEO tạo ra thật nhiều lợi nhuận cho công ty, qua đó tăng giá trị của công ty, đảm bảo sự phát triển của công ty trong thời gian dài qua đó đem lại lợi ích cho các cổ đông. Các nhà quản lý và nhân viên dưới quyền mong đợi CEO tạo cơ hội cho họ phát triển, tạo cơ hội cho họ được tăng lương và các khoản phúc lợi. Đại diện các sở ban ngành và cơ quan quản lý hữu quan, ngoài việc mong đợi các giám đốc điều hành thực hiện tốt các qui định về mặt hành chính thì cũng mong muốn các giám đốc điều hành ủng hộ và thể hiện sự quan tâm tới việc giải quyết các vấn đề xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, khách  hàng cũng luôn mong đợi giám đốc điều hành với tư cách là người điều hành doanh nghiệp sẽ đưa ra các chính sách giúp họ có mức độ thoả dụng cao hơn....Như vậy, ở một góc độ nào đó thì để đáp ứng mong đợi của đại diện chính quyền và các sở ban ngành, cán bộ quản lý và nhân viên dưới quyền, và khách hàng thì giám đốc điều hành thường có xu hướng tăng các khoản chi làm tăng chi phí của công ty trong khi mong đợi của các nhà đầu tư là cố gắng quản lý chi phí một cách hiệu quả.  Bên cạnh các mong đợi chung là được tôn trọng và có mối quan hệ tốt thì các đối tác đôi khi có những mong đợi khác chiều nhau khiến cho các giám đốc điều hành rơi vào tình thế khó ra quyết định. Vì thế trong nhiều trường hợp giám đốc điều hành phải xác định được các mong đợi ưu tiên cần được giải quyết trước và các mong đợi kém ưu tiên hơn trong từng trường hợp nhất định. Việc xác định mong đợi nào nên được ưu tiên tuỳ thuộc vào mục tiêu của giám đốc điều hành trong từng tính huống.  Để có thể làm việc tốt và xây dựng được mối quan hệ tốt với các đối tác tác trong công việc, nhiều nhà quản lý cho rằng các giám đốc điều hành nên có quan điểm coi tất cả các đối tác là khách hàng và đối xử với các đối tác như khách hàng. Vì thế điều đầu tiên mà các giám đốc điều hành phải làm là xác định đúng mong đợi của các đối tác, sau đó cân đối với năng lực đáp ứng của mình và doanh nghiệp. Nếu mong đợi của đối tác vượt quá khả năng đáp ứng thì cần phải định hướng lại nhu cầu của các đối tác trước khi đáp ứng. Có như vậy, giám đốc điều hành mới có thể làm việc tốt. Vì vậy, vai trò giám đốc điều hành trong doanh nghiệp không những có vai trò quản lý là làm “đúng” (tức là tuân thủ đúng qui trình, qui định) mà còn có vai trò lãnh đạo, định hướng đối tác tức là làm “việc đúng”, xác định mục tiêu đúng, ra quyết định đúng trong từng tình huống, phân công đúng người đúng việc. Đây chính là 2 vai trò quan trọng của một giám đốc điều hành doanh nghiệp. 

Để làm “đúng”, các giám đốc điều hành phải biết xây dựng kế hoạch, giám sát mọi hoạt động theo đúng qui trình, qui định và kế hoạch đã đặt ra. Hay nói cách khác, giám đốc điều hành cần duy trì mọi hoạt động của doanh nghiệp theo đúng chuẩn mực và qui trình để đạt mục tiêu của tổ chức. Câu hỏi quan trọng mà các giám đốc điều hành cần trả lời trong trường hợp này là mọi việc đã đúng chưa? Có sai sót gì không? Và tìm cách điều chỉnh các sai lệch nếu có. Bên cạnh đó, giám đốc điều hành lại phải “làm đúng việc” có nghĩa là biết ra các quyết định đúng, xây dựng qui trình đúng và ngày càng tốt hơn để đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Từ góc độ “làm đúng việc, các giám đốc điều hành doanh nghiệp lại luôn phải có tầm nhìn xa và rộng để có thể đưa ra các chính sách tốt nhất giúp doanh nghiệp phát triển. Khác với “làm việc đúng”, để có thể làm đúng việc, các giám đốc điều hành phải luôn có xu hướng đổi mới và trả lời câu hỏi “có cách nào tốt hơn không?” và tìm ra cách tốt hơn đó để đưa doanh nghiệp đi lên. Và như thế, các giám đốc điều hành không chỉ là người điều chỉnh sai lệch mà còn phải đưa ra các chính sách đúng nhất để doanh nghiệp có thể phát triển tốt hơn trong tương lai. Với hai vai trò như vậy, giám đốc điều hành doanh nghiệp thực sự là một nghề vất vả, đầy chông gai, đầy thử thách nhưng cũng rất vinh quang khi thành công và chèo lái đưa con thuyền doanh nghiệp gặt hái hết thành công này đến thành công khác.  Với một nghề có thể kiếm được rất nhiều tiền, chịu nhiều sức ép và rủi ro như vậy thì cần có các phẩm chất và năng lực gì? Quan niệm về phẩm chất và năng lực của các giám đốc điều hành không khác nhau nhiều ở các nước khác nhau. Với người châu Á, giám đốc điều hành cần hội đủ ba tính cách Tín, Nhân, Đức. Trong đó Chữ tín được hiểu là Uy tín của CEO. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu. Không giữ đúng lời hứa, thậm chí dùng nhiều mánh lới, thủ đoạn gian lận, đánh lừa đối tác (mà thường cho rằng đó là sự tháo vát khéo léo) là kẻ thù của tiêu chuẩn tối quan trọng này. Chữ Đức được hiểu là Đạo đức nghề nghiệp. Ngoài yếu tố lương bổng, các nhân viên chỉ có thể làm việc tự giác, tận tâm, hết mình khi nhìn vào gương sáng về tư cách CEO. Một CEO không có đạo đức nghề nghiệp, tư lợi, tham nhũng, chỉ biết vun vén cho quyền lợi cá nhân thì dù bao nhiêu mệnh lệnh chặt chẽ, khe khắt hay sự đốc thúc riết ráo cũng không thể thúc đẩy được nhân viên. Chữ Nhân được thể hiện ở khả năng hiểu và thông cảm với nhân viên của CEO. Một CEO tư cách tốt nhưng khắt khe, độc đoán, không hiểu được tâm tư nguyện vọng và thiếu sự cảm thông với nhân viên thì may lắm chỉ duy trì được doanh nghiệp không phá sản chứ không thể đưa doanh nghiệp ngày một phát triển, sáng tạo ra những thành quả tốt đẹp. Sự cảm thông (có nguyên tắc) tạo ra hòa khí, sự tin cậy và quý mến nhau giữa nhân viên và CEO sẽ là giải pháp “vô hình” thúc đẩy nhân viên tự giác, sáng tạo trong công việc.

{Ví dụ điển hình về CEO, Leader thời kì 4.0
Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam 
là hãng công nghệ hàng đầu về các thiết bị điện tử, 
công nghệ số tự hào Made in Việt Nam thời đại cách mạng 
công nghiệp 4.0. Để làm nên thương hiệu, mấu chốt nhất của 
AAV Việt Nam là biết quy tụ nhân tài. Trong khi các doanh nghiệp
 đang loay hoay tìm, giữa người tài - đây là bài toán khó khăn nhất,
 chưa có lời giải chuẩn, thì AAV Việt Nam đã huy động được rất đông 
đảo kĩsư giỏi nhất về âm thanh, ánh sáng, điện tử, tự động hóa, công 
nghệ thông tin cả ở trong nước và ngoài nước để nghiên cứu, nghiên cứu,
 chế tạo các sản phẩm AAV tốt nhất và lại được sản xuất trên dây chuyền
 hiện đại, linh kiện cao cấp. Do vậy, sản phẩm thiết bị truyền thanh
 AAV Việt Nam - made in Việt Nam chất lượng quốc tế, giá thành 
Việt Nam. Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại. 
Có thể xem chi tiết hơn tại: Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam
Hãng AAV Việt Nam đã thực sự quy tụ được những tài hoa nhất
 để tạo dựng thương hiệu Made in Vietnam.}

 Có nhiều quan điểm cho rằng giám đốc điều hành CEO trong cần có Tầm, Tâm và Tài. Chữ TẦM thể hiện là khả năng nhìn xa trông rộng, dự đoán được các xu hướng phát triển kinh doanh và xác định rõ tầm nhìn, mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Biết chèo lái đưa doanh nghiệp đi đúng hướng. Chữ TÂM thể hiện khả năng thu phục nhân tâm, gây ảnh hướng và tập hợp những nhân viên dưới quyền đi theo đúng mục đích đã đặt ra. Muốn có chữ TÂM các CEO phải thực sự là tấm gương sáng cho nhân viên, thu phục nhân viên bằng chính bản thân mình thông qua việc hiểu và cảm thông với các nhu cầu của nhân viên để từ đó tác động, khơi dậy các tiềm năng của nhân viên, giúp nhân viên thoả mãn các nhu cầu của mình qua việc cống hiến cho doanh nghiệp. Chữ TÀI thể hiện khả năng điều hành doanh nghiệp vượt qua các khó khăn và cạnh tranh tốt trên thị trường. TÀI của các CEO chính là năng lực cảm nhận được nhu cầu của các đối tác, quản lý, năng lực tổ chức điều hành, năng lực lãnh đạo, năng lực ra quyết định và giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp và sự am hiểu về ngành nghề kinh doanh để có thể ra quyết định đúng nhằm đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Chữ TÀI của CEO được thể hiện chủ yếu qua các chỉ số IQ (thông minh), EQ (năng lực cảm nhận) và AQ (Ý chí quyết tâm và kiên định vì mục tiêu) của con người. Trong một hồi ký viết về cuộc đời mình, tỷ phú nổi tiếng một thời Harold Geneen, người có thời gian gần 20 năm làm giám đốc điều hành hãng điện thoại và điện tín quốc tế ITT đã nói về công việc của người giám đốc một cách dễ hình dung nhất là người làm ra lợi nhuận bằng khả năng và nghệ thuật quản lý của mình. Nghệ thuật quản ý được hiểu trước kết là khả năng xác định mục tiêu rõ ràng và đạt mục tiêu thông qua người khác. Muốn làm được điều đó các CEO cần phải có khả năng xác định được đúng mục tiêu của mình và biết truyền tải mục tiêu đó cho nhân viên trong công ty. Không những thế, CEO cần có năng lực cảm nhận được nhu cầu cũng như năng lực làm việc của nhân viên để có thể khai thác, phát huy năng lực đó một cách hiệu quả nhất thông qua các chính sách phân công đúng người đúng việc.  Theo Viện nghiên cứu ADIZE của Thuỵ Điển, các CEO cần có 4 tố chất PAEI với (P) là sự chăm chỉ cần cù và kiên định với mục tiêu, (A) là biết đặt ra hệ thống các qui định và nội qui đúng để duy trì sự ổn định của doanh nghiệp và gương mẫu tuân thủ các qui định hành chính trong doanh nghiệp, (E) khả năng nhìn xa trông rộng, biết nhận ra và nắm bắt các cơ hội kinh doanh để đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và (I) là sự hợp tác, biết hợp tác với các đối tác và qui tụ lòng người nhân viên dưới quyền đoàn kết, phối hợp hoạt động vì mục tiêu chung của doanh nghiệp.  Vậy, các nhân tố nào ảnh hưởng đến việc hình thành tố chất của các CEO?  Hiện nay có một số trường phái khác nhau bàn về việc hình thành tố chất của con người nói chung và của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp CEO nói riêng. Theo lý thuyết con người vĩ đại, các yếu tố hình thành nên tố chất lãnh đạo của các CEO chủ yếu là gia đình và dòng tộc. Nếu ai đó không sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống làm lãnh đạo doanh nghiệp thì khó có thể có các tố chất lãnh đạo và vì thế khó có thể trở thành CEO giỏi trong một doanh nghiệp.  

Theo lý thuyết đặc tính cá nhân cho rằng các giám đốc điều hành doanh nghiệp dù được sinh trưởng trong gia đình khác nhau, trong các quốc gia khác nhau nhưng họ đếu có những đặc tính cá nhân chung nhất định như tầm, tâm, tài..v.v... vì thế, muốn trở thành các giám đốc điều hành giỏi thì có thể học hỏi và rèn luyện để có những tố chất và đặc tính cá nhân đó. Chính vì vậy, có những giám đốc điều hành nổi tiếng thế giới không phải được sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống làm kinh doanh và lãnh đạo doanh nghiệp. Những người này thường có định hướng mục tiêu rõ ràng và hình thành mong muốn trở thành các CEO ngay từ khi còn học phổ thông trong các trường trung học. Qua nhiều năm họ đã được học tập và rèn luyện để hình thành những tố chất cần có của một giám đốc và hoàn thiện dần các tố chất này. Vì thế họ đã rất thành công trong vị trí của mình. Do đó, yếu tố cá nhân có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến việc hình thành tố chất của các CEO. Lý thuyết lãnh đạo theo hoàn cảnh lại cho rằng những tính cách và giá trị cá nhân của con người có thể được hình thành trong những hoàn cảnh nhất định thông qua gia đình, nhà trường, xã hội nơi mà các CEO được đào tạo, giao lưu rèn luyện. Chính vì vậy mà CEO ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Nhật ... được tiếp cận với các tố chất về kinh doanh trong các bài học của chương trình đào tạo tất cả các cấp học tư cấp 1 đến cao đẳng và đại học. Vì thế, họ nhìn nhận về các cơ hội kinh doanh nhanh nhạy hơn các CEO của Việt Nam. Môi trường kinh doanh của các nước có nền kinh tế thị trường từ rất sớm đã tạo cho các CEO của những nước này có sự cảm nhận tốt hơn về nhu cầu khách hàng so với các CEO của Việt Nam và các nước có truyền thống của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Không những thế, do đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau nên người lao động ở các nước khác nhau thì khác nhau. Chính vì vậy, mức độ thể hiện của các tố chất của giám đốc điều hành cũng khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm và tính chất, trình độ học vấn và sự nhạy cảm của các loại nhân viên dưới quyền. Theo quan điểm này, các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tố chất của các CEO không chỉ là bản thân người CEO ấy được sinh trưởng trong gia đình nào, hoặc được đào tạo trong môi trường nào, mà còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh nơi CEO làm việc như ngành nghề kinh doanh và sự phát triển khác nhau của nhân viên mà CEO đó lãnh đạo và quản lý trong quá trình đạt mục tiêu của mình. Bên cạnh tố chất, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp mà đặc biệt là CEO cần có những kỹ năng quản trị nhất định để có thể tác động, lôi cuốn người khác đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Là người chèo lái con thuyền doanh nghiệp, nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần biết sẽ đưa doanh nghiệp đi đâu, làm thế nào để đến được đích đó, do vậy kỹ năng lãnh đạo thể hiện ở việc xác định mục tiêu và quản lý quá trình thực hiện mục tiêu như đào tạo và phát triển nhân viên dưới quyền là quan trọng nhất. Với vai trò là người đại diện của doanh nghiệp có tiếng nói với khách hàng, trước cộng đồng và phải làm việc với các đối tác khác nhau, lắng nghe và thấu hiểu những mong đợi của đối tác cũng như thuyết phục  đối tác, nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần có kỹ năng giao tiếp và kỹ năng thuyết trình tốt. Với vai trò là người ra quyết định để giải quyết các vấn đề trong kinh doanh, giải quyết các mâu thuẫn về chính trị cũng như mâu thuẫn lợi ích giữa các đối tác thì nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần có kỹ năng giải quyết vấn đề tốt. Với vai trò là người thường xuyên khởi sướng sự thay đổi để giúp doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn thì nhà lãnh đạo cần có kỹ năng quản lý sự thay đổi. Với vai trò là cầu nối để có thể tập hợp được mọi nguồn lực của tổ chức trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất thì nhà lãnh đạo cần có kỹ năng xây dựng những nhóm làm việc hiệu quả….Có rất nhiều kỹ năng mà nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần có. Trong giáo trình này, tác giả nhấn mạnh một số kỹ năng quan trọng như kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng xây dựng nhóm làm việc hiệu quả, kỹ năng quản lý sự thay đổi. Mỗi kỹ năng được viết thành một chuyên đề và chú trọng đến các quan điểm, cách thức phát triển và hoàn thiện kỹ năng. 



Pls Contact: Copy right by: Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam and Tăng âm truyền thanh AAV Việt Nam for more informations

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2019

Cách mạng công nghiệp 4.0 - Vision chuẩn và đầy đủ nhất


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; cách mạng công nghiệp 4.0; Industry 4.0; Industrie 4.0; the forth in dustrial revolution là gì?

Copy right by Tăng âm truyền thanh thời đại 4.0

Trong tiến trình phát triển của xã hội, loài người đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp tương ứng với 3 mốc phát triển đột phá của khoa học - công nghệ. Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay còn gọi là “Cách mạng công nghiệp 4.0. Vậy thực chất và xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như thế nào? Cuộc cách mạng này có vai trò và tác động đến đời sống nhân loại nói chung và trong lĩnh vực quân sự nói riêng ra sao?

Sự ra đời của cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Cách mạng công nghiệp (CMCN) là một khái niệm dùng để chỉ những nấc thang phát triển mang tính đột biến, triệt để trong tiến trình phát triển công nghiệp, làm thay đổi sâu sắc các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội của nhân loại. Sự phát triển của nhân loại trong hơn 3 thế kỷ qua chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những thay đổi từ các cuộc cách mạng công nghiệp.  
Đến nay, thế giới đã trải qua 3 cuộc CMCN. Cuộc CMCN lần thứ nhất diễn ra từ cuối thế kỷ 18 bởi các thành tựu về cơ khí hóa với sự ra đời của máy hơi nước. Cuộc CMCN lần thứ hai xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với việc phát minh ra động cơ điện và dây chuyền lắp ráp để tạo ra sản phẩm và sản xuất đại trà. Cuộc CMCN lần thứ ba bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ 20 với đặc trưng là việc sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Từ đầu thế kỷ 21, thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ cuộc CMCN lần thứ tư hay còn được gọi là cuộc CMCN 4.0.

Cuộc CMCN lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution) được hình thành trên nền tảng của CMCN lần thứ ba, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật số đã xuất hiện từ giữa thế kỷ trước.
Cuộc CMCN lần thứ tư gắn liền với thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Công nghệ Hanôvơ ở Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Năm 2012, thuật ngữ này được đặt tên cho một chương trình hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Đức hợp tác với giới nghiên cứu và các Hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua “điện toán hóa”. Từ đó đến nay, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới để mô tả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 20-01-2016, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, thu hút sự tham dự của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100 quốc gia, Khái niệm cuộc CMCN lần thứ tư hay Công nghiệp 4.0 đã được làm rõ tại diễn đàn này. “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định của GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, người đã đưa ra khái niệm cuộc CMCN lần thứ tư .

Cuộc CMCN lần thứ tư  ra đời xuất phát từ các lý do chính sau đây:
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009 đặt ra yêu cầu cho các nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển phải điều chỉnh, thậm chí thay đổi căn bản mô hình phát triển theo hướng cân bằng hơn, hiệu quả và bền vững hơn. Các nguy cơ về an ninh năng lượng, an ninh môi trường đòi hỏi các nước đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu đổi mới, sáng tạo, tìm ra các giải pháp công nghệ, tối ưu hóa quá trình sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm năng lượng.
Trước sự cạnh tranh gay gắt của các nền kinh tế mới nổi (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc…) nhờ lợi thế chi phí lao động thấp, các nước công nghiệp phát triển đứng trước sức ép rất lớn phải tái cơ cấu kinh tế để tiếp tục duy trì vị thế dẫn dắt nền kinh tế thế giới, nhất là trong các ngành công nghệ cao.
Hiện nay, xu hướng già hóa dân số, lực lượng lao động giảm làm giảm tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của các nước công nghiệp phát triển với một số nền kinh tế mới nổi, đòi hỏi các nước này phải đầu tư nhiều hơn vào phát triển khoa học-công nghệ nhằm bù đắp thiếu hụt lao động.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ trên lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, Iternet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ in 3D, công nghệ nanô, công nghệ sinh học, vật liệu mới, lưu trữ năng lượng... vừa là động lực, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc tiến hành cuộc CMCN lần thứ tư.

 Bản chất cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc CMCN lần thứ tư được đánh giá là khác hoàn toàn về chất so với 3 cuộc CMCN trong lịch sử, có tác động nhanh chóng, sâu sắc, toàn diện và triệt để đến mọi mặt đời sống con người, trên mọi lĩnh vực và phạm vi toàn cầu. Việc ứng biến với cuộc CMCN lần thứ tư đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân, chính thể trên thế giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học học và toàn xã hội



Về cơ bản, cuộc CMCN 4.0 dựa trên ba lĩnh vực chính

-  Lĩnh vực Kỹ thuật số: Bao gồm dữ liệu lớn (Big Data); vạn vật kết nối Iternet (IoT); trí tuệ nhân tạo (AI).



+ Thuật ngữ dữ liệu lớn “Big Data” là một tập hợp dữ liệu rất lớn mà các kỹ thuật điện toán thông thường không thể xử lý được. Thuật ngữ “Big Data” không chỉ đề cập tới dữ liệu mà còn chỉ cơ cấu tổ chức dữ liệu, các công cụ và công nghệ liên quan.

+ Vạn vật kết nối Internet (IoT) là một tập hợp các thiết bị (trong thế giới thực), hoặc thế giới thông tin (thế giới ảo) có khả năng kết nối với nhau, với Iternet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công việc nào đó.



+ Trí tuệ nhân tạo (AI) là những thiết bị có thể tư duy suy nghĩ như trí tuệ con người. Nó có thể xử lý dữ liệu ở mức độ rộng hơn, quy mô lớn hơn và nhanh hơn so với con người.
-  Lĩnh vực Công nghệ sinh học: Ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
Lĩnh vực Vật lý: Rôbốt thế hệ mới, in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…), công nghệ nanô.
Trong đó, các vật liệu mới với thuộc tính mà chỉ cách đây vài năm vẫn còn được coi là viễn tưởng: chúng nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng; có thể tự làm sạch, các kim loại có khả năng khôi phục lại hình dạng ban đầu...







{{{Một phương thức hay về xây dựng thế trận lòng dân
thời kì cách mạng công nghiệp lần thứ 4:
 Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam là hãng 
công nghệ hàng đầu về các thiết bị điện tử, 
công nghệ số thực sự Made in Việt Nam thời đại cách mạng 
công nghiệp 4.0. Các thiết bị truyền thanh AAV đều được các kĩ
 sư giỏi nhất về âm thanh, ánh sáng, điện tử, tự động hóa, công 
nghệ thông tin nghiên cứu, chế tạo, được sản xuất trên dây chuyền
 hiện đại, linh kiện cao cấp. Do vậy, sản phẩm thiết bị truyền thanh
 AAV Việt Nam - made in Việt Nam chất lượng quốc tế, giá thành 
Việt Nam. Các thiết bị truyền thanh hãng AAV  đều  có tính năng
tiên tiến, ưu việt hơn hẳn các thiết bị truyền thanh nhập ngoại.
Hãng AAV Việt Nam đã thực sự quy tụ được những tài hoa nhất để 
tạo dựng thương hiệu Made in Vietnam. Đó cũng chính 
là biết ứng dụng thế trận lòng dân trong thời kì cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4 rất sôi động hiện nay .
Có thể xem thêm tại link: Thiết bị truyền thanh AAV Việt Nam }}}

 Như vậy, về bản chất của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền tảng công nghệ và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn, nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy… Đặc điểm nổi bật của cuộc CMCN 4.0 là sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Khác biệt của cuộc cách mạng này là, tạo ra sự giao tiếp, kết nối con người với máy móc; hệ thống ảo thực có khả năng hỗ trợ con người ra các quyết định xử lý nhanh chóng và xu hướng tự động hóa càng nhiều càng tốt (tự hoạt cao). Đây là nền tảng cho việc xây dựng các nhà máy thông minh, nhà máy số trong tương lai.

Đặc trưng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Một là, nhờ khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trên nhiều lĩnh vực.
Cuộc CMCN lần này đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo. Trong các "nhà máy thông minh", các máy móc được kết nối Intemet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của người dân trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực, như: AI, công nghệ rôbốt, IoT, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ nanô, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử.
Hai là, tốc độ của cuộc CMCN lần thứ tư là không có tiền lệ trong lịch sử. Nếu các cuộc CMCN trước đây diễn ra với tốc độ tuyến tính (cấp số cộng), thì tốc độ phát triển của cuộc CMCN lần thứ tư là theo hàm số mũ (cấp số nhân). Từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, đến hiện thực hóa các ý tưởng đó trong các phòng thí nghiệm, thương mại hóa ở quy mô lớn được rút ngắn đáng kể về thời gian. Những đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực với tốc độ rất nhanh và tương tác thúc đẩy nhau sẽ tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa, ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn.
Ba là, cuộc CMCN lần này làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên “cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất - giá trị. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi mạnh mẽ của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người. Như vậy, trong cuộc cách mạng này, các công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên diện rộng được khuếch tán nhanh hơn và rộng rãi hơn so với những cuộc cách mạng lần trước. Năm 2015, Công ty Tư vấn quản lý toàn cầu và Công ty Dịch vụ chuyên nghiệp cung cấp các dịch vụ chiến lược, tư vấn, kỹ thuật số, công nghệ và hoạt động (Accenture), đã đưa ra một số liệu kinh tế là: quy mô của cuộc CMCN 4.0 có thể mang lại cho nền kinh tế toàn cầu thêm khoảng 14.000 tỷ USD thu nhập trong 15 năm tới.

Tác động cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc CMCN lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ: Toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Các tác động này mang tính tích cực trong dài hạn song cũng tạo ra nhiều thách thức trong ngắn hạn và trung hạn.
Tích cực

- Về kinh tế

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - “thông minh”. Các thành tựu mới của khoa học - công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị...
Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa, quá trình sản xuất đang chuyển dịch dần từ các nước có nhiều lao động phổ thông và tài nguyên sang những nước có nhiều trung tâm nghiên cứu, phát triển, nhiều lao động có kỹ năng, chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo - là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông - là những yếu tố đầu vào luôn có giới hạn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ tác động tích cực đến tiêu dùng và giá cả. Theo đó, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với những sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí thấp hơn. Ví dụ như: gọi xe taxi, đặt vé máy bay, mua bán sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim qua mạng... Những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng, vật liệu, Iternet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, in 3D giúp giảm mạnh áp lực chi phí, qua đó làm giảm giá cả hàng hóa và dịch vụ. Tất cả sẽ giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Về mặt môi trường

Nhờ các ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu thân thiện với môi trường và các công nghệ giám sát môi trường cũng đang phát triển nhanh được hỗ trợ bởi Intemet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên tục cũng như các cảnh báo sớm từ các thảm họa thiên nhiên. Ví dụ: sản phẩm được làm ra từ các vật liệu mới (với đặc tính nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng…) sẽ ít ảnh hưởng đến môi trường; hoặc thông qua các phương tiện bay không người lái được kết nối bởi Iternet, trang bị camêra và các bộ phận cảm ứng có khả năng thu thập thông tin cần thiết cho việc giám sát môi trường.

- Về mặt xã hội

Cuộc CMCN lần thứ tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở nhiều nước với sự xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, văn hóa, nghệ thuật, giải trí, truyền thông, giáo dục, đào tạo, y tế, pháp luật... Ví dụ như:

Với y tế:

Nhờ công nghệ phát triển, tạo ra những công cụ có tính năng thông minh: đồng hồ thông minh, quần áo thông minh để thu thập thông tin về sức khỏe liên tục của con người. Những đột phá trong công nghệ nanô giúp tạo ra Iternet kết nối vạn vật siêu nhỏ để thu thập thông tin về sức khỏe con người, việc chăm sóc sức khỏe người bệnh được thực hiện bằng con người dần được thay thế bằng những rôbốt, các thiết bị máy móc có thể cùng lúc lướt duyệt hàng triệu hồ sơ bệnh án để cung cấp cho các bác sĩ những lựa chọn điều trị dựa trên bằng chứng chỉ trong vài giây nhờ khả năng tổng hợp dữ liệu khổng lồ và tốc độ xử lý rất nhanh.

Với giáo dục và đào tạo: 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến nội dung, chương trình đào tạo, công nghệ thực tế ảo sẽ làm thay đổi cách dạy và học. Việc học có nhiều đổi mới, sinh viên có thể đeo kính VR (kính thực tế ảo) là có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học hiệu quả hơn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm cho sự kết hợp giữa nhà trường với doanh nghiệp và xã hội tăng lên; trong tương lai số lượng giáo viên ảo có thể nhiều hơn số lượng giáo viên thực rất nhiều...

- Về quốc phòng - an ninh

Cuộc CMCN lần thứ tư có tác động mạnh mẽ tới các lĩnh vực của khoa học công nghệ quân sự. Nhiều thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ được ứng dụng vào quân sự, làm xuất hiện những hệ thống vũ khí thế hệ mới, với những tính năng mới, có sự nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả, như các loại vũ khí công nghệ cao: vũ khí điều khiển chính xác thế hệ mới, vũ khí tàng hình, vũ khí tác chiến điện tử, vũ khí năng lượng định hướng (vũ khí lade, vũ khí chùm hạt...), vũ khí viba, pháo điện từ, vũ khí thông minh và vũ khí vũ trụ. Do đó, nó sẽ tác động đến những vấn đề lý luận và thực tiễn quân sự.
Tác động đến nghệ thuật quân sự: Sự xuất hiện của các loại vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh làm thay đổi phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược, không gian, thời gian tác chiến và kể cả ranh giới tiến công, phòng ngự cũng có sự thay đổi. Bên cạnh đó, cần có sự phát triển các hình thức và phương pháp tác chiến mới dẫn đến chiến thuật, chiến dịch, chiến lược quân sự.
Tác động đến người lính: Với công nghệ mới, sẽ tạo ra các loại vũ khí, trang bị hiện đại, người lính sẽ được trang bị đồng bộ những thiết bị bảo vệ, chiến đấu, liên lạc… ví dụ như: áo giáp siêu nhẹ, kính nhìn đêm, bộ đàm trong mũ... giúp cho họ có sự tự tin trên chiến trường.
Chi phối đến việc tổ chức quân đội: Khoa học công nghệ phát triển, tạo điều kiện cho quân đội các nước cải tiến tổ chức theo hướng gọn, mạnh (giảm quân số, tăng cường trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại), hiện đại hóa.
Như vậy, cuộc CMCN 4.0 đã mang đến những bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ quân sự, tạo ra những vũ khí và phương tiện chiến tranh mới, từ đó xuất hiện những phương thức tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự và học thuyết quân sự mới.
b) Tiêu cực

- Về kinh tế - xã hội

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang lại sự bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là nó có thể phá vỡ thị trườmg lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi rôbốt thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải… Hơn nữa, theo nhiều chuyên gia kinh tế, trong tương lai tài năng sẽ thay thế cho vốn để trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất của sản xuất. Điều này sẽ khiến cho thị trường việc làm chia tách thành các phân khúc "kỹ năng thấp/giá rẻ" và "kỹ năng cao/lương cao", tạo ra sự chênh lệch giàu nghèo.
Bên cạnh sự mất cân bằng trong kinh tế, nhiều người cũng quan ngại về sự bất bình đẳng trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ đem lại. Những người được hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng này là các công ty công nghệ cao, vốn hóa lớn, cổ đông và các nhà đầu tư. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có lợi cho tầng lớp giàu có hơn là người nghèo (đặc biệt là lao động trình độ thấp). Công nghệ là một trong những nguyên nhân làm cho thu nhập của người lao động ở các nước phát triển không gia tăng, nếu không muốn nói là đang có xu hướng giảm đi. Nhu cầu về lao động có tay nghề rất cao đang tăng lên trong khi những người có trình độ học vấn và tay nghề kém hơn đang đứng trước nguy cơ thất nghiệp (Ngân hàng thế giới ước tính, tiến trình tự động hóa sẽ đe dọa 57% việc làm của 35 quốc gia thành viên Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế, con số này đối với hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ - 47% và Trung Quốc - 77%). Thị trường việc làm có nhu cầu mạnh mẽ ở đầu cao và thấp, trong khi những người "thường thường bậc trung" sẽ bị loại thải dần, tạo ra một xã hội mất dân chủ và bất mãn, tạo cơ hội cho những ý thức hệ và tư tưởng cực đoan lan rộng.

- Về môi trường

Công nghệ phát triển, các máy móc, sản phẩm công nghiệp cũ sẽ bị thay thế, bị thải loại, tạo ra những bãi thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường.

- Về quốc phòng - an ninh

Việc ứng dụng sản phẩm của CMCN4.0 trong hoạt động quân sự, ở góc độ nào đó làm cho nguy cơ dẫn đến chiến tranh có thể nhanh hơn với các hình thức đa dạng hơn, từ xa, thậm chí phi vật thể. Mức độ hủy diệt cao hơn, gia tăng hình thức tiến công phủ đầu. Đặc biệt là hình thành nên không gian tác chiến mới bên cạnh các không gian truyền thống như mặt đất, trên biển, trên không và vũ trụ. Khi quá trình này diễn ra và các công nghệ mới hỗ trợ vũ khí điều khiển từ xa, vũ khí sinh học, vũ khí tự động... trở nên dễ sử dụng. Cùng với  sự kết hợp mạnh mẽ của ba "đại xu hướng": vật lý, số hóa và sinh học trong môi trường IoT sẽ tạo ra các cơ hội cho cá nhân và các nhóm nhỏ tham gia vào các hoạt động chiến tranh và sở hữu khả năng gây ra những tổn thương hàng loạt có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia. Lỗ hổng mới này sẽ là một nguy cơ đối với nhân loại.
Cuộc cách mạng này cũng làm cho ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình, giữa chiến binh và dân thường, thậm chí là giữa bạo lực và phi bạo lực (chẳng hạn như chiến tranh mạng) đang trở nên ngày càng mong manh hơn. An ninh mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, luôn tìm cách thâm nhập vào hệ thống máy tính của đối thủ để đánh cắp thông tin, thu thập tin tức... gây rối loạn xã hội.

Xu hướng phát triển cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang ở giai đoạn đầu, xong các chuyên gia dự báo, cuộc cách mạng này sẽ phát triển “như vũ bão”, các xu thế lớn của công nghệ mới có thể được chia thành 3 nhóm: vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Cả ba đều liên quan chặt chẽ và thâm nhập vào nhau, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng và có giá trị sử dụng cao, thậm chí có thể thay thế con người trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Đó là các loại xe ôtô tự lái và nhiều loại phương tiện tự lái khác... Cùng với quá trình phát triển của cảm biến và trí tuệ nhân tạo, khả năng của các phương tiện tự hành này cũng được cải thiện với tốc độ nhanh chóng. Cũng theo các nhà khoa học, khoảng mười năm tới, 10% xe chạy trên đường ở Mỹ sẽ là xe không người lái.
Đặc biệt, những thành tựu mới trong lĩnh vực sinh học phân tử, sinh học tổng hợp và di truyền học, với sự hỗ trợ của những phương tiện hiện đại, đã giúp giải mã nhanh các hệ gen, tìm hiểu sâu về mật mã di truyền, có thể giúp chỉnh sửa mã gen để chữa các bệnh di truyền, tạo ra những giống cây trồng mới trong nông nghiệp có những tính năng thích ứng với tình trạng hạn hán, nước nhiễm mặn hoặc chống sâu bệnh…
Theo báo cáo của WEF công bố tháng 9 năm 2015, xác định 21 sản phẩm công nghệ sẽ định hình tương lai kỹ thuật số và thế giới siêu kết nối. Đó là những sản phẩm mà con người kì vọng sẽ xuất hiện trong 10 năm bắt nguồn từ những thay đổi sâu sắc của cuộc CMCN 4.0.
Đây là 21 sản phẩm của cuộc CMCN 4.0 được sắp xếp theo số lượng ý kiến giảm dần: (1) 10% dân số mặc quần áo kết nối với Internet; (2) 90% dân số có thể lưu trữ dữ liệu không giới hạn và miễn phí (có kèm quảng cáo); (3) 1.000 tỷ cảm biến kết nối với Internet; (4) Dược sĩ rôbốt đầu tiên ở Mỹ; (5) 10% mắt kính kết nối với Internet; (6) 80% người dân hiện diện số trên Internet; (7) chiếc ôtô đầu tiên được sản xuất hoàn toàn bằng công nghệ in 3D; (8) Chính phủ đầu tiên thay thế điều tra dân số bằng các nguồn dữ liệu lớn; (9) Chiếc điện thoại di động cấy ghép vào người đầu tiên được thương mại hóa; (10) 5% sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bằng công nghệ in 3D; (11) 90% dân số dùng điện thoại thông minh; (12) 90% dân số thường xuyên truy cập Internet; (13) 10% xe chạy trên đường ở Mỹ là xe không người lái: (14) Cấy ghép gan đầu tiên làm bằng công nghệ in 3D; (15) 30% việc kiểm toán ở công ty được thực hiện bằng trí tuệ nhân tạo; (16) Lần đầu tiên chính phủ thu thuế qua một blockchain; (17) Hơn 50% lượng truy cập internet ở nhà liên quan đến các thiết bị dân dụng; (18) Trên toàn cầu những chuyến đi du lịch hay công tác thực hiện nhiều hơn qua các phương tiện chia sẻ so với các phương tiện cá nhân; (19) Thành phố đầu tiên với hơn 50.000 người không có đèn giao thông; (20) 10% tổng sản phẩm nội địa toàn cầu được lưu trữ trên blockchain; (21) Máy trí tuệ nhân tạo đầu tiên được sử dụng cho một hội đồng quản trị công ty.
Trong lĩnh vực quân sự, các chuyên gia dự báo sẽ có nhiều sản phẩm, vũ khí, trang bị (VKTB) kỹ thuật mới ra đời bằng công nghệ in 3D, công nghệ nanô... Trong đó, đặc biệt là các rôbốt quân sự, vũ khí thông minh, máy bay không người lái...
Do vậy, để hội nhập với thế giới văn minh đang tiến bước mạnh mẽ vào kỷ nguyên CMCN 4.0, trước hết phải đổi mới đúng hướng hiện đại hóa của nền giáo dục, nhằm đào tạo ra đội ngũ lao động có đủ tri thức và kỹ năng thích ứng với thời đại mới.

 Đánh giá về cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Từ đánh giá của các nhà phân tịch cho thấy, CMCN 4.0 đang ở giai đoạn khởi phát, với nhiều công nghệ của tương lai mới trong thời kỳ nghiên cứu và phát triển. Phần lớn công nghệ nền tảng của CMCN 4.0 của các nước phát triển đều dự báo sẽ có đột phá và ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống từ giữa thập niên 2020 trở đi. Cụ thể: một số nước phát triển (như Mỹ, Đức, Trung Quốc…) đang có vị thế thuận lợi để dẫn dắt CMCN 4.0, bởi những nước này là nơi khởi phát CMCN 4.0 và đang đầu tư mạnh vào các lĩnh vực công nghệ cốt lõi của CMCN 4.0. Nếu CMCN 4.0 diễn ra thành công như các dự báo hiện nay, thì từ khoảng giữa thập niên 2020 các nước phát triển sẽ có động lực lớn thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện sức cạnh tranh.
Có thể xem cuốn sách “Cuộc CMCN 4.0”, của GS Klaus Schwab, người sáng lập và điều hành WEF, là tuyên ngôn về cuộc CMCN 4.0. Bởi không chỉ nước Đức có chương trình CMCN 4.0, mà các nước phát triển trong mấy năm qua đều có các chương trình chiến lược về sản xuất trong tương lai, khi những tiến bộ của khoa học và công nghệ đang diễn ra rất nhanh. Nước Mỹ có “Chiến lược quốc gia về sản xuất tiên tiến” cho ba thập kỷ tới; Trung Quốc có “Làm tại Trung Quốc năm 2025” (Made in China 2025); Pháp có “Bộ mặt mới của công nghiệp nước Pháp”; Hàn Quốc có “Chương trình tăng trưởng của Hàn Quốc trong tương lai”;… với một điểm chung là các nước này đang chuẩn bị chiến lược phát triển sản xuất “thông minh” cho một tương lai gần.
Một số nước khác cũng đã áp dụng phương pháp tiếp cận cuộc CMCN 4.0 theo định hướng ngành trong chiến lược hoặc kế hoạch khoa học, công nghệ và đổi mới quốc gia. Trong một số trường hợp, đã thực hiện các sáng kiến theo định hướng ngành kết hợp tài trợ trực tiếp (như trợ cấp, tài trợ vốn chủ sở hữu) với tài trợ gián tiếp (như ưu đãi thuế).
Các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 đều được các nước ứng dụng để tối ưu hóa quy trình sản xuất, quản lý, tiêu dùng như hạ tầng thông minh, xây dựng thông minh, dây chuyền thông minh, sản phẩm thông minh, quản trị thông minh... Theo đó, với sự phát triển của số hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông chi phí thấp ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất dịch chuyển dần từ các nước/vùng có nhiều lao động kỹ năng phổ thông và tài nguyên sang những nước/vùng có nhiều lao động chuyên môn cao (thiết kế, chuyên gia…) và gần thị trường tiêu thụ. Nhiều nước, kể cả các nước phát triển và đang phát triển, đang tìm cách chuyển sang phương thức tăng trưởng dựa vào sáng tạo công nghệ. Do đó, nhiều nền kinh tế đang nổi, đặc biệt là Trung Quốc, đang nỗ lực chuyển đổi mô hình phát triển từ dựa vào tài nguyên, lao động chi phí thấp sang đổi mới công nghệ và sáng tạo.
Có thể thấy, trong nền kinh tế tri thức (thông minh), nguồn lực phát triển quan trọng nhất là tri thức, nhân lực có năng lực thích ứng và sáng tạo công nghệ. Nền kinh tế nào sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao sẽ giành ưu thế lớn trong cạnh tranh toàn cầu.
Theo các chuyên gia, với việc sản xuất ngày càng thông minh, càng hiệu quả của các nước phát triển sẽ ảnh hưởng đến các nước khác. Mỗi quốc gia, dù đang ở vị thế nào trên bản đồ phát triển của thế giới, cũng sẽ tìm ra cách phát triển trong sự thay đổi do cuộc CMCN 4.0 đem lại.
Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, cuộc CMCN 4.0 sẽ tác động trực tiếp và nhiều nhất đến các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp (như lắp ráp, dịch vụ…), do lao động dần được thay thế bởi tự động hóa, rôbốt thông minh. WEF dự báo, công nghệ mới sẽ thay thế khoảng 7,1 triệu lao động trên thế giới từ nay đến năm 2020; riêng Đông Nam Á, khoảng 56% việc làm sẽ bị thay thế bởi công nghệ trong hai thập kỷ tới.
Các chuyên gia nhận định, trong CMCN 4.0, vai trò của lao động giản đơn và chi phí thấp sẽ giảm mạnh. Sức mạnh chính trị - kinh tế sẽ thuộc về những nước sáng tạo và làm chủ các công nghệ cốt lõi của CMCN 4.0, chứ không phải các nước sở hữu nhiều tài nguyên và lao động. Vì vậy, nếu các nước đang phát triển không tranh thủ được CMCN 4.0, thì khoảng cách với các nước phát triển ngày càng rộng hơn.
       Nguồn Tăng âm truyền thanh, thiết bị truyền thanh, thiết bị âm thanh
 hãng AAV Việt Nam chất lượng cao, tính năng ưu việt nhất hiện nay